Monday, November 7, 2011

HUẾ ĐẸP VÀ THƠ


    Tôi mượn cái tên trên đây của một cuốn phim màu mà mấy chục năm trước, một nhiếp ảnh gia nghệ thuật ở Huế, ông Richard, một người Việt Nam lai Pháp, đã quay một bộ phim về Huế, cố đô của Việt Nam.  Huế đẹp và thơ thật, đẹp về người và thơ về cảnh.  Cũng giống như Tuấn, chàng trai nước Việt của nhà văn Nguyễn Vỹ, học trò trong Quảng ra thi, tôi cũng đã bao lần chân đi không đành khi thấy một cô gái Huế.  Quả tim tôi đã rung động trước những thiếu nữ miền sông Hương núi Ngự.  Năm ấy tôi ra Huế học, thầy tôi đưa tôi đến trọ tại một nhà nấu cơm tháng cho học sinh ở vùng Gia Hội.  Tính tôi nhút nhát, ít khi xa nhà nên sợ sệt, bỡ ngỡ, nhưng sau đó tôi mất dần đi vẻ ngơ ngác lúc ban đầu.  Tôi đã theo học ở Huế, và làm việc tại đây trong nhiều năm cho đến ngày nhập ngũ.  Sống ở Huế một thời gian dài, đã từng mơ mộng trước dòng sông Hương êm đềm, hoặc ngồi hóng mát dưới cành thông reo núi Ngự, đã quen biết nhiều người Huế nên tôi coi Huế như một quê hương thứ hai.
    Tôi đã sống ở Huế cuộc sống của một học sinh trung học xa nhà, tài sản chỉ chiếc rương con bằng gỗ và một chiếc xe đạp mẹ mua cho từ ngày tôi ra Huế.  Tôi đã ở trọ rất nhiều nơi: từ vùng Gia Hội, xuống dưới Đông Ba, vào thành Nội, sang bên khu vực Pháp ở tả ngạn sông Hương, gần nhà thờ Pháp đường Bobillot lúc bấy giờ.  Sau đó, về ở mãi tận sân vận động thành phố - Xóm Mới - một khu vực bình dân, nổi tiếng có các động em út gái làng chơi, nhưng cũng đặc biệt có món cơm âm phủ rất ngon.  Tại đây tôi ở trọ nhà một thầy giáo hương sư, thầy Đàn, quê vùng Văn Xá.  Thầy vào Huế cất một ngôi nhà tranh nhỏ nuôi cơm tháng học sinh, để giúp hai con thầy ăn học, Lương và Đống bạn tôi, cặp song sinh giống nhau như hai giọt nước.  Và nếu có thể tìm cách gả chồng cho cô con gái út.  Đến khi ra đời làm việc tại tòa Khâm sứ Pháp Huế, là một công chức độc thân, tôi vẫn tiếp tục sống cuộc đời ở trọ.  Lúc ấy tôi ăn cơm tháng ở gia đình cụ Bát Quát trong dãy nhà "bồi" của tòa Khâm, dành cho maitre d'hôtel và các nhân viên phục dịch của vị Khâm sứ Pháp.  Sau đảo chính Nhật, rồi Việt Minh cướp chính quyền, tôi vào thành Nội, xin ở trong một căn phòng dùng làm kho của thư viện Bảo Đại, nơi tôi làm việc.  Khi Pháp trở lại, tản cư trở về thành phố, tôi đến ở nhà một người bạn đồng nghiệp cũ tại đường Trung Bộ bên Gia Hội một thời gian khá lâu, trước khi qua ở đường Phạm Hồng Thái (Verdun cũ), gần trường Việt Anh, thuộc khu vực Pháp.  Sau đó tôi bị động viên nhập ngũ.
    Tôi được cái may mắn là sống rày đây mai đó, lúc còn học sinh cũng như khi ra làm công chức, với chiếc rương, cái xe đạp và mấy chồng sách.  Với chừng ấy thứ, khi tôi ở nhà này, khi trọ nhà khác, hết khu vực bình dân, lính tráng, lại đến nhà công chức, vào gia đình quan lại giòng vua, qua các khung cảnh nhà quê cũng như phố phường đông đúc.  Tôi đã ăn cơm tháng nhiều nơi, sống với những tầng lớp xã hội khác nhau.  Được sự thương yêu của các bà cụ, bà mẹ, thấy mình là một học sinh nhỏ tuổi xa nhà, nên đem lòng mến thương, xem như con cháu trong gia đình.  Do đó, tôi đã thấy rõ, hiểu biết gần hết nếp sống của người dân Huế, và quen thuộc với tập quán, tính tình, tâm tư tình cảm của họ.  Những thứ ấy đã ảnh hưởng rất nhiều đến tâm hồn tôi lúc bấy giờ.
    Hơn nữa, nhờ sống lâu năm ở Huế, tôi đã trải qua hầu hết các chế độ, các biến cố lịch sử đã xảy ra tại cố đô.  Từ thời Pháp thuộc, sang Nhật chiếm đóng, chính phủ Trần Trọng Kim lên, kế đến Việt Minh cướp chính quyền, rồi Tây trở lại, việc thành lập chính phủ quốc gia mà mình là một viên chức đã chứng kiến bao sự thăng trầm.  Huế xưa kia là trung tâm của những cuộc bể dâu, bao biến chuyển lịch sử từ ngày vua Gia Long lập quốc.  Mấy mươi năm ở Huế, tôi đã phần nào là một nhân chứng mắt thấy tai nghe những đổi thay của xã hội vào những năm cuối cùng của triều đình nhà Nguyễn. Tâm hồn tôi vì thế cũng hòa nhịp với nếp sống vui buồn của người dân thành phố.
                                                                        *****
    Ra Huế từ năm mười sáu tuổi, tôi đã lớn lên theo đà năm tháng cùng với những lớp thanh niên nam nữ của đất thần kinh.  Tôi đã già đi theo năm tháng mà không biết mình đã già theo năm tháng, cứ tưởng mình còn trẻ mãi.  Quả tim tôi vẫn bồi hồi rung động như những ngày còn đi học, gặp những nữ sinh cùng trang lứa, các em Đồng Khánh trong những chiếc áo dài màu xanh biển.  Lớp nữ sinh Đồng Khánh đàn chị trước đó, mặc áo dài đồng phục màu tím hoa sim.  Đến lúc tôi ra đời làm việc, lại xuất hiện những tà áo trắng bồ câu duyên dáng trinh nguyên.  Mỗi buổi chiều tan học, các cô đi bộ từ trường Đồng Khánh về nhà, phần lớn các cô đều ở tả ngạn sông Hương.  Khi đi trên chiếc cầu Tràng Tiền ba vày sáu nhịp - chiếc cầu xe hơi duy nhất thời ấy bắt ngang qua sông - tà áo các nữ sinh phất phới tung bay trong gió mát, trông quyến rũ làm sao.
    Thật ra Huế có rất nhiều người đẹp, nhưng những cô gái trẻ, xinh như mộng đều tập trung ở trường nữ trung học Đồng Khánh.  Trường nằm bên hữu ngạn sông Hương, xây từ thời Pháp, cùng với trường quốc học Khải Định dành cho nam sinh.  Hai trường nằm sát cạnh nhau trong những khu vườn trường rộng rải, thoáng mát, sâu hun hút, chứ không phơi bày ở một ngả tư đường xe cộ đông đúc như trường Gia Long Sài Gòn, hay lồ lộ như một trường Trưng Vương Bắc Việt di cư.  Chỉ nội hai chiếc cổng ra vào và bức thành vây xung quanh cũng đủ phân biệt hai trường: cổng Đồng Khánh kín đáo, e dè như tâm hồn cô gái Huế, cổng Khải Định rộng mở, cường tráng như những chàng thanh niên đang độ lớn.
    Ở một số trường khác, như Hồ Đắc Hàm, Việt Anh, Phú Xuân, Thuận Hóa, cũng có những nàng chim sa cá lặn.  Nhưng các nữ sinh ở đây quá ít, chỉ năm ba chị, nên chất nữ tan mất trong chất nam, ít ai để ý.  Đồng Khánh là nơi quy tụ các giai nhân đang tuổi vào đời, để rồi mai đây thi đậu, tản mác ra ngoài xã hội, làm tròn thiên chức người vợ, người mẹ.  Lớp trước được thay thế bằng những lớp sau, trẻ đẹp hơn, đang độ nở hoa.  Nữ sinh Đồng Khánh duyên dáng với mái tóc thề vừa chấm bờ vai, nõn nà trong tà áo trắng mịn, ở chiếc nón lá bài thơ đội nghiêng nghiêng khi mỉm cười e lệ hay liếc mắt đưa tình không biết.  Nhất là quai nón bằng nhung xanh hay bằng hàng mịn ôm vòng qua chiếc cổ thon nhỏ sao mà dễ thương.
    Ngoài các trường học, người đẹp ngoài đời ở Huế cũng rất nhiều, đa số là cựu nữ sinh, nay  đang hồi rực rỡ, chờ ngày lên xe hoa.  Vùng nào, khu vực nào, cũng có những hoa hậu một thời.  Những ngày tôi chưa nhập ngũ, nếu tôi không lầm, tôi được biết Bến Ngự có Trang, An Hòa, Kim Long có Phin, Hồng, Đông Ba có Nhạn, Gia Hội có Tâm, Hồng Trang, Quế Hương, phố Trần Hưng Đạo có Minh Cầm, và em gái ông chủ giây thép phụ, phố Gia Long có Mai, thành nội có Tường Vi, nữ sinh trường tiểu học Đoàn Thị Điểm.  Về tả ngạn sông Hương, khu vực Cây Me có Trà Mi, Minh Đức, vùng Chợ Cống có mấy chị em Cung Huyền, Tiểu Huyền, con cụ Hồ Đắc B.  Đó là những cái tên rất quen thuộc mà hầu hết các thanh niên Huế vào thập niên 40-50 đều biết rõ.  Đặc biệt Kim Thuận ở Chợ Cống có lẽ là người đẹp nhất.  Kim Thuận đẹp không chê ở đâu được, từ làn môi, cặp mắt, dáng điệu, đôi bàn tay, đẹp đến mê hồn.  Các thiếu nữ khác nhiều người cũng rất đẹp, nhưng tôi không thuộc hết tên.  Phần đông các nàng con gái Huế đẹp người đẹp nết, nội trợ đảm đang, lớp sau lớn lên thay chân lớp trước.  Gái Huế dịu dàng, như có mặt nước sông Hương phản chiếu trong đôi mắt đa tình, ướt át long lanh, nhưng cũng rất kín cổng cao tường.  Khách si tình nhiều khi phải tiếc ngẩn ngơ khi một người đẹp bước lên xe hoa về nhà chồng.
    Đến Huế, từ ga xe lửa đi thẳng xuống, dọc theo đường Jules Ferry cũ, qua khỏi tư dinh của viên Đốc Lý Pháp, sâu về phía tay phải, là hai trường Khải Định và Đồng Khánh.  Tiếp theo là Thủ Thừa, Phủ Doản, bệnh viện Huế, đến khách sạn Pháp Morin Frères, xây mặt ra phía cầu Tràng Tiền nối liền hai bờ tả hữu sông Hương.  Rồi đến tòa Khâm sứ Huế, chiếm một vùng rộng lớn uy nghi, mở ra phía trước bờ sông.  Bên kia sông là chợ Đông Ba và khu thị tứ người Việt.  Nhìn xa hơn nữa là thành quách của chính phủ Nam Triều với kỳ đài đồ sộ, lá quốc kỳ của triều đình Huế màu vàng có sọc đỏ bay phất phới trên ngọn cột cờ cao.  Từ tòa Khâm Sứ đi xuống nữa, dọc theo bờ sông Hương, về hướng Đập Đá, thôn Vĩ Dạ, làng Nam Phổ, là những vùng ngoại ô xinh đẹp và nổi tiếng của thành phố Huế, nơi có nhiều gia đình quan lại về hưu, có những vườn cau thẳng tắp, hàng rào tre, khóm trúc vây quanh.    
    Đặc biệt Huế là thành phố của hoa phượng.  Xung quanh các trường Đồng Khánh và Khải Định, và dọc theo bờ sông Hương, bên hữu ngạn, thời ấy gọi là phường Tây, là những hàng phượng vĩ lá xanh mướt, hoa đầy.  Mỗi năm, sắp đến mùa tan trường, phượng nở hoa đỏ rực trời.  Bên tả ngạn, khu vực người Việt buôn bán, trong thành nội, đâu đâu cũng cả rừng phượng vĩ nở hoa.  Mùa hoa phượng là mùa của học sinh chia tay, mùa ly biệt.  Trong tiếng ve sầu chát chúa, cất lên từng hồi đều đặn, hết đợt này đến đợt khác, trên các cành hoa phượng để rồi thân xác rơi xuống nằm chết dưới gốc cây, những bản nhạc ve cứ liên tục hòa tấu cho mãi đến khuya.  Hoa phượng đỏ và tiếng hát của ve sầu báo trước mùa hè đã đến.  Học sinh chia tay nhau trong lòng đầy lưu luyến.  Họ viết cho nhau những dòng lưu niệm tình tứ thân thương của lứa tuổi vào đời giữa học sinh cùng lớp trước buổi chia tay.  Cũng có thể có những mối tình thơ mộng mà sự chia tay không hẹn ngày gặp lại: "Hết mùa tới rạ rơm khô, bạn về quê bạn biết mô mà tìm."
    Từ cầu Tràng Tiền xuôi về hướng nam, qua hết khu vực Pháp là Ty cảnh sát Thừa Thiên, con đường thẳng tắp băng qua một cánh đồng mênh mông bát ngát.  Đó là cánh đồng An Cựu với những ruộng lúa chín vàng về mùa hạ, gạo An Cựu thơm ngon có tiếng ở miền Trung.  Đến xã An Cựu Tây, một xã ngoại thành, thay vì đi theo quốc lộ 1 để về Nam, du khách rẻ về phía tay phải, đi khoảng chừng vài cây số nữa, băng ngang đường xe lửa xuyên Việt là đến chân núi Ngự Bình.  Đó là một quả núi thấp án ngữ như một chiếc bình phong lớn che trước hoàng cung.  Ngự Bình với hàng thông cao reo trong gió, là nơi mà ngày nào cũng có biết bao nhiêu du khách thừa lương leo hóng mát.  Những cặp trai gái yêu nhau, những đôi bạn trẻ, đưa nhau lên núi Ngự, đi bộ hoặc đèo nhau bằng xe đạp, hoặc song song mỗi người mỗi chiếc.  Họ ngồi dưới bóng thông tình tự, hoặc ngã lưng trên những thảm lá thông khô cho đỡ mệt vì vừa leo núi trong cái im lắng buổi trưa hè.  Chiều mát, họ mới cùng nhau xuống núi, ghé quán bánh bèo mụ Sỏi ngon có tiếng, ăn mấy chén bánh bèo nhỏ cho đỡ đói trước khi về nhà.  Chén bánh bèo trắng, rải nhụy tôm hồng, chấm với nước mắm ớt xanh, vừa ngọt, vừa cay, vừa xuýt xoa ngon miệng.  Tuổi học trò, tuy tiền nhà ít gửi, mỗi lần đi chơi núi Ngự với bạn, tôi cũng phải ăn đến mười chén bánh bèo, mỗi chén một xu mới đã dạ.
    Trai gái hẹn hò nhau còn thiếu gì nơi.  Những chiếc ghế đá đặt theo dọc vườn hoa ở hai bên bờ sông Hương đã ghi lại kỷ niệm bao cuộc tình duyên ngắn ngủi, đôi trai gái lén nhà ra đây tình tự những đêm trăng.  Ngồi tại đài Phú Văn Lâu trò chuyện, thỉnh thoảng có các cô hàng chè thịt quay, hoặc các thứ chè khác, ngọn đèn dầu leo lét, gánh qua lại chào mời.  Hoặc lắng tai nghe tiếng rao hàng của các cô bán hàng chè cháo trên sông Hương.  Những chiếc thuyền nan nhỏ, lướt trên mặt sông, mời du khách đang ngủ đò với những tiếng rao quà cao vút, thanh trong.  Ngủ đò là mộtsự thích thú vào bậc nhất của du khách khi đến viếng đất thần kinh.  Gió trên mặt sông mát rợi, thuyền khách thả neo đậu giữa giòng sông, bồng bềnh trong đêm thanh vắng.  Không phải ai cũng là khách tìm hoa, nhưng nghe giọng rao quà trên sông của các cô bán hàng người Huế: "Chè đậu xanh, bo bo, bánh bèo, bún bò, bột lọc..." du khách vẫn thấy thèm ăn một món Huế nào đó, mặn có, ngọt có, tùy ý khách, cũng như thanh hay tục tùy theo lòng người.
    Thượng nguồn sông Hương, đứng ở cầu Tràng Tiền nhìn lên là chiếc cầu Bạch Hổ, chạy ngang qua các xã Kim Long, An Hòa, Vân Xá để ra miền Bắc.  Đó là chiếc cầu sắt xe lửa, mỗi ngày mấy chuyến tàu qua lại xình xịch.  Khi sắp vào ga Huế tàu lại hú lên những hồi còi lanh lãnh, nhả khói ra trắng xóa, báo trước để hành khách chuẩn bị xuống tàu.  Ở ga này, mỗi năm tôi hai lần lên xuống, trong những dịp nghỉ hè và Tết, về quê thăm cha mẹ, vui làm sao, lòng như mở hội.  Nhưng đến lúc trở ra Huế lại, lòng buồn lo lắng cho năm học mới, đầy khó khăn.
    Càng nhìn lên nửa về phía thượng nguồn là xã Nguyệt Biều, con gái vùng này cũng đẹp có tiếng, rồi đến điện Hòn Chén.  Đối diện, phía tả ngạn sông Hương, là chùa Thiên Mụ, một di tích lịch sử, được mô tả trong câu thơ: "Gió đưa cành trúc la đà, tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương".
    Cũng dọc theo tả ngạn con sông, từ cầu Tràng Tiền nhìn về phía hạ lưu, trước hết là sân banh của hội thể thao S.E.P.S.H.  Tiếp đến là chợ Đông Ba, có các hàng cá, thịt, mắm, rau quả, hàng vải, với một mùi hôi "chợ" đặc biệt, sàn chợ lầy nhớp, bùn tanh, chợ đông suốt ngày.  Ở các gian hàng vải lụa có những cô bán hàng mặn mòi, có vốn liếng, đang kiếm chồng.  Có thể là một anh phán tòa sứ trẻ tuổi, hoặc một thầy thông, thầy ký nào của bảo hộ, hay một anh thừa phái của Nam triều.  Nếu ai đó được lọt vào mắt xanh các cô, bảo đảm có một cuộc sống vật chất chắc chắn, bù vào số lương công chức ba cọc ba đồng.
    Đi xuống nữa là Cồn Hến thuộc khu Gia Hội, một cái cồn đất nhỏ nổi lên gần bờ sông, nơi sản xuất, những con hến ngon, với những gánh cơm hến Huế, chuyên bán cơm hến vào ăn sáng, bát hến Huế ngon cay xé họng, trộn với cơm nguội, thật là mặn mòi, đầy hương vị.  Sống ở Huế, không ai không thưởng thức món cơm hến, một món ăn bình dân, vừa rẻ tiền vừa no bụng.
    Từ vùng Gia Hội đi xuống nữa là miệt Ao Hồ, Bãi Dâu, đường xá gồ ghề, lâu ngày không được sửa chữa, nỗi đau khổ cho chiếc xe đạp của anh học trò nghèo.  Đi một quãng nữa là bến đò Chợ Dinh, đông người qua lại, nối liền hai bờ sông Hương.  Bên kia, phía hữu ngạn là làng Nam Phổ, có nhiều người con gái quê khỏe mạnh, mặn mòi, làn môi ăn trầu cắn chỉ, "cây cau Nam Phổ, lá trầu Chợ Dinh", đã xe duyên chồng vợ.
    Trở lại vùng Gia Hội, đi theo con đường Trung Bộ có bóng cây râm mát là đến đường Ngự Viên, bước lên chiếc cầu Đông Ba cao làm bằng gỗ, để rẻ vào thành nội qua cửa Đông Ba.  Cũng giống như hai cầu Tràng Tiền và Bạch Hổ nối liền hai bờ sông Hương, hai chiếc cầu Đông Ba và Gia Hội được bắt từ bờ này sang bờ bên kia của con sông đào Gia Hội.  Đông Ba, Gia Hội hai cầu, là nơi mà học sinh chúng tôi, nếu ở trọ quanh đấy, thường những đêm hè nóng rực, đem nhau lên cầu trò chuyện.  Nhất là cầu Đông Ba ít xe, thưa người qua lại đã chứng kiến hơn một cuộc tình duyên đầu đời.  Khi có người đến, thì nàng vội vã chia tay.  Và bước chân nàng thoăn thoắt qua mau, "thôi em đi trước, kẻo về mẹ la".
    Trên cầu nhìn xuống dưới bến, bao nhiêu chiếc thuyền gỗ đậu sát hai bên bờ kênh.  Cả một gia đình sống chui rúc trong một chiếc thuyền, xuôi ngược giòng sông, chở hàng đi bán, hoặc đón khách ban đêm đưa ra giữa giòng sông hóng mát.
    Song song hai bên bờ kênh Đông Ba là những ngôi nhà cổ kính, một bên là phố hàng Đường với ngôi chùa Diệu Đế ngân nga tiếng chuông chiều, và những ngôi nhà quan lại xưa, rải rác trong vùng Ngự viên, Gia Hội.  Đến dốc cầu Đông Ba, trước khi bước lên cầu là những cửa hàng bánh khoái, với những chiếc bánh khoái dòn, thơm ngon, con tôm chín đỏ tươi, miếng thịt gà như nằm nũng nịu, chiếc nấm rơm như khép nép đợi chờ.  Lấy mấy ngón tay cầm chiếc bánh nóng dòn, chấm vào chén nước tương quánh đậm đặc, đưa lên miệng, và với rau sống đặc biệt có và khế, chuối chát xắt lát, cắn trái ớt đỏ tươi, tôi chưa biết chỗ nào đúc bánh khoái ngon như ở đây.  Gia đình muốn học hỏi kỷ thuật, tự làm bánh khoái cho đỡ tốn, nhưng đã bắt chước một cách vụng về.
    Bên kia kênh Đông Ba là phố Hàng Bè, một khu vực buôn bán nhỏ của người Tàu và người Việt Nam.  Tại đấy, ngày còn đi học tôi thường đến tiệm tạp hóa của chú La Ngu, nơi có bán các loại vỡ rất đẹp, tôi thường mua đem về quê cho các em.  Rồi đến những gian hàng bánh mứt, mè xửng Huế rất ngon, của bà Từ Đờn, bà Thị Hai.  Bà này có những cô cháu gái xinh đẹp, duyên dáng, sau này có chồng lập nghiệp ở phương xa.  Bà Thị Hai có lẻ nổi tiếng nhất Huế về món bánh ngọt, đặc biệt có các thứ bánh phu thê mặn ngọt, bánh lá chả tôm, bánh in, bánh hột sen.  Bà Thị góa chồng, không con, nuôi một bầy cháu gái, cháu ruột có, cháu họ có, được bà truyền nghề cho, nên người nào cũng nấu ăn ngon và bánh trái khéo.
    Nói cho đúng, thức ăn Huế ngon vô cùng.  Ngon vì con heo được nuôi kỹ bằng cám, loại heo nhỏ, không phải thứ heo lớn như heo miền Nam, con tôm, con cá ngọt ngào, săn thịt. Thậm chí món rau sống Huế cũng được trình bày đặc biệt.  Màu xanh của rau húng rau thơm, xen với những lát khế ngọt, chín vàng, những lát vả trắng dòn, đặc biệt mấy lát thơm ăn vào ngọt lịm mát tận cổ.  Rau này ăn với thịt heo ba chỉ luộc và các thứ mắm Huế là tuyệt diệu.  Hơn nữa, ngon vì bàn tay cô gái Huế dịu dàng thon nhỏ, ai muốn có người vợ nấu ăn ngon, trường hợp khác chỉ là ngoại lệ.  Vì là đất thần kinh, nơi vua chúa, nên các thức ăn đều ngon, phải quý mới hiến dâng vua, nên cũng đặt tên kèm theo chữ "ngự": trái chuối ngự, chén chè đậu ngự, v.v..
    Song song với phố Hàng Bè, cách một dãy phố, và nằm về bên trong là đường Gia Long, thường gọi là Ngả Giữa, nổi tiếng có hàng cháo lòng, bát cháo lòng nóng hổi, thơm phức, kèm  với đĩa nồi trường dòn tan, ngọt, ăn cùng với những lát dưa leo thái mỏng, rất ngon.  Đi bộ lên một quảng nữa là hàng chè đủ thứ, chè ướp lạnh, vừa ăn cháo lòng xong xong, trán miệng một ly chè sen đá là tuyệt vô cùng.
    Đi hết ngả giữa, quẹo trái là cầu Gia Hội, còn quẹo tay phải là dãy phố Trần Hưng Đạo, nơi buôn bán lớn, khu downtown của thành phố, có những cửa hàng quần áo, giày dép, xe đạp, mỹ phẩm sang trọng.  Rạp ciné Tân Tân mà học sinh chúng tôi thường hay đến xem vì rẻ tiền, và thuộc lòng tên của các tài tử chiếu bóng gạo cội thời ấy như Clark Gable, Marlène Dietrich, Tyrone Power, Ava Gardner, Carole Lombard, v.v...
    Cứ đi thẳng lên nữa theo đường Trần Hưng Đạo là tư dinh của thượng thư bộ lại Phạm Quỳnh, một ngôi nhà cổ kính, có tàng cây râm mát.  Đi một quảng nữa, rẻ về phía tay phải là đường vào cửa Thượng Tứ, cổng chính để vào thành nội.  Hai bên đường này là hai hiệu ảnh lớn của Huế, hiệu Tôn Thất Dung, chụp rất đẹp, và hiệu Tâng Vĩnh đối diện, có mấy cô con gái đang tuổi lấy chồng, rất ăn diện, áo dài lơ-muya phất phơ như cánh bướm ra vào.
    Trong thành nội, là tam cung lục viện, các bộ của triều đình, rồi đến các dãy nhà viên chức của Nam triều.  Nha Hộ Thành sầm uất bóng cây với các chú lính khố vàng, các ngã tư Anh Danh, ngã tư Âm Hồn, những điạ danh nói lên ý nghĩa khác nhau trong lịch sử, khu Cầu Đất v.v..., với những vườn nhãn lồng ngọt ngào, mọng nước, những chùm nhãn trông kín đáo, e ấp xuân tình như người con gái Huế.
                                                                        ***
    Vậy đó, tôi lớn lên giữa lòng thành phố Huế, quen thuộc với nếp sống của người dân Huế, với nét thanh tao của người con gái Huế, mắt ướt long lanh, đa tình tuyệt diệu.  Nhiều cô cũng có những cuộc đời chìm nổi, nhưng biết bao nhiêu người đã thành công trong cuộc sống, hạnh phúc lứa đôi, những mệnh phụ phu nhân.  Huế là một thành phố nhỏ, thành phố công chức, mà mọi việc xảy ra cả làng đều biết: "Toute la ville en parle".  Do đó cũng ít có những điều gì tai tiếng, hay những cảnh yêu cuồng sống vội như ở các thành phố khác.
    Tuy không quen nhau, nhưng sống ở đây, mọi người đều biết đến cuộc đời của người khác, cũng như người khác đã rỏ tất cả về cuộc sống của mình.  Với cuộc sống một công chức độc thân, làm việc tài tòa Khâm sứ Pháp, được các bạn đồng nghiệp tặng cho hai chữ "jeune premier", tôi quên mất rằng mình là chàng trai xứ Quảng.  Theo giòng người xuôi ngược trên các con đường Hưng Đạo, Gia Long, mỗi sáng chủ nhật đi dạo phố, được cô gái Huế liếc mắt đưa tình.  Trong bộ complet cắt khéo, mùa xuân mưa phùn lất phất, khoác chiếc măng to raglan, đi chơi dưới trời mưa bụi, tôi cảm thấy rất yêu đời.  Nếu muốn, mình có thể đi hỏi một cô làm vợ, vì mình là đối tượng làm rể mà các bà mẹ có con gái sắp lên xe hoa đang để ý.
                                                                ***
    Bỗng khói lửa nổi lên, mịt mù khói lửa.  Chế độ đỗi thay.  Lửa rực cháy khắp thành phố vì Việt Minh tấn công vào các cơ sở của Pháp đến thay thế quân đội Trung quốc để giải giới quân đội Nhật thua trận.  Tôi phải di tản ra xã Triều Sơn Tây ở phía bắc thành phố Huế cùng với kho tàng thư viện.  Rồi chạy nữa, chạy nữa, xa hơn nữa về miền quê để tránh Pháp.  Đình Phú Lương thuộc quận Phong Điền ở miền cực bắc Thừa Thiên.  Suýt nữa phải bị kéo ra Vĩnh với Ủy ban Kháng Chiến của Cộng sản.  Khi trở về thành phố, mọi việc đã đổi thay.  Pháp đã trở lại, rất cần văn khố, thư viện.  Nhưng thư viện đâu còn nữa.  Khu đình Hiền Lương, nơi văn khố và thư viện được di chuyển về đó mấy tháng trước, nay đã đổ nát tan tành.  Tất cả sách báo, hồ sơ lưu trữ đã bị gió mưa, đạn lửa làm tiêu rụi hết.  Thêm vào đó, dân chúng địa phương rút các bao bố đựng sách về để dùng, giờ chỉ còn một núi giấy sũng ướt vì mưa gió.  Bao nhiêu hồ sơ có tính cách lịch sử, bao nhiêu sách quý về văn chương, khoa học, đều trở thành bùn nát, mà lòng tôi cũng tan nát như tương.  Những quyển sách mà mới đây tôi còn săn sóc, nâng niu như những đứa con tinh thần, giờ này chỉ còn là những đống giấy vụn để người ta chở về bán ve chai, hoặc các hiệu giày đo ni đóng giày cho khách.
                                                                    ***
    Trở lại với cuộc đời công chức tại Tòa Ủy Viên Cộng Hòa Pháp ở Huế trong một thời gian mấy năm cho đến ngày tôi bị động viên nhập ngũ khóa 3 sĩ quan trừ bị Thủ Đức. Cuộc sống trong quân đội chỉ có hơn hai năm ở Huế, một tiểu đoàn pháo binh, sau đó được đổi về miền Nam làm việc, tôi ít có dịp trở lại cố đô.  Thế nhưng, những hình ảnh Huế, và những kỷ niệm về Huế vẫn in sâu đậm vào tâm hồn tôi.  Hình ảnh những người con gái Huế với giọng nói thanh tao, bàn tay duyên dáng, đôi mắt ướt đa tình không làm sao tôi quên được.  Làm sao quên được những buổi chiều tan sở, đạp xe qua cầu Tràng Tiền để về phía bên kia Gia Hội, nhìn các bóng hồng áo dài bay một cách quyến rũ như một niềm vui hứa hẹn vợ chồng.  Hoặc những ngày mùa đông mưa dầm gió lạnh, mưa giăng mắc trên sông Hương mịt mù ảm đạm.  Mưa cứ rơi rơi, mưa luồn qua kẻ lá những cành vông đồng cao, thấm ướt các tàng lá cây rậm rạp trong vườn tòa Khâm sứ Huế.  Mỗi buổi sáng tôi đi làm việc, gió thổi từ bờ sông đưa lên lạnh thấm xương.  Mưa Huế thường hàng tuần, có khi hàng tháng.  Mỗi khi phải qua cầu đầy mưa gió, nhìn thấy các cô gái Huế trong những chiếc áo tơi đọt làm bằng lá kè, về sau này là những chiếc áo mưa bằng nilông xanh, vàng, đỏ, trong suốt quyện cả thân hình, các nàng mới đẹp làm sao, gây nhiều mơ ước cho những chàng trai chưa vợ.  Những năm trời làm mưa lụt, vùng Đông Ba, Gia Hội ngập cả đường đi, tôi đi học về không dám xăn ống quần, cứ để thế mà lội, có mặc cảm đôi chân mình đen điu xấu xí.  Mưa trên thành phố, mưa cả trong hoàng thành, chao ôi thương nhớ, chao thương nhớ.  Sau này xa Huế, mỗi lần nghe giọng nữ ca sĩ Hoàng Oanh hát bài Tiếng Sông Hương có câu: "...trời làm mưa lụt miền Trung", lòng tôi lại lặng buồn giây lát, nhớ những mối tình đã qua trong cuộc đời học sinh và công chức lúc ở Huế.  Ngày còn đi học, lòng thương ai nhưng không dám nói nên lời, những "bức thư tình viết không gửi xếp nằm trong sách cũ".  Giờ đây Huế vẫn làm tôi thương nhớ, những năm còn ở quê nhà.  Dù tiếng hát Hoàng Oanh đã vắng bóng ở khung trời Việt Nam, nhưng nghe giọng ca của hai chị em Nhã Phương và Bảo Yến, tuy không trữ tình bằng Hoàng Oanh, nhưng bài "Huế của tôi", cũng có thể làm cho lòng tôi thổn thức nhớ về cố đô ngày trước khi tôi là một học trò trong Quảng ra thi. 
Đức Nguyên
Chiều ngả nón chào nhau trên đỉnh Ngự
Đêm Hương Giang hò hẹn khúc Huyền Trân
Khách hồ hải bỗng gặp hồn thương nữ
Điệu đàn xưa rung động ánh trăng ngân
(Nguyễn Huyền Không)

Sunday, November 6, 2011

ĐƯỜNG VÀO ĐỊA NGỤC



Trại tù "Cải Tạo Lao Động" tàn phá tâm hồn và thể xàc của con người (Solzhenitsyn).
     Ngày 13.6.1975, tôi đến Đại học xá Minh Mạng ở Chợ Lớn để làm thủ tục đi tù cộng sản.  Đại học xá Minh Mạng, nơi lưu trú của các sinh viên đại học xa nhà lên học tại Sài Gòn, nay không còn bóng dáng một sinh viên.  Ngay cả gia đình những viên chức phụ trách khu đại học cũng không còn ai cả.  Cả khu này đều bị cộng sản chiếm, bộ đội của chúng canh gác sau trước, trong ngoài.  Tại phòng tiếp khách, thấy khá đông sĩ quan, toàn là đại tá và tướng; các sĩ quan cấp trung tá và thiếu tá, đều tập trung tại tu viện Don Bosco.  Vì làm ngành nhân viên, tôi quen mặt rất đông và biết tên hầu hết.  Các anh D.N.Bảo, T.N.Thống, ở cùng xóm với tôi, đã đến trước, đang ngồi với mấy người bạn khác trên những chiếc "băng" học sinh xếp thành từng hàng song song, trước một bàn thầy giáo, nơi ấy có một anh bộ đội trung niên, người miền nam ngồi.  Tất cả đều chờ đợi để lần lượt lên nộp giấy tờ tùy thân.  Vài ba người nói chuyện xầm xì với nhau, những anh khác im lặng, nhìn quanh.  Mọi người đều dè dặt ít trao lời.  Bắt đầu từ hôm nay là cuộc đổi đời, nên kín đáo, dè dặt là đúng.  Những người làm thủ tục xong, đi theo chiếc cầu thang nhỏ để lên lầu.  Đến lượt tôi lên tên bàn bộ đội.  Tôi móc ví, rút ra thẻ căn cước sĩ quan, căn cước dân sự và giấy chứng nhận cư trú của Cao Minh Chiếm, tên chỉ huy công an cộng sản địa phương ký.  Thấy anh bộ đội thu hết giấy tờ tùy thân của tôi mà không cấp biên lai hoặc giấy chứng nhận gì khác, tôi hỏi, đuợc hắn trả lời:
    -"Chúng tôi sẽ cấp giấy khác."
    Giọng nói của hắn có vẻ hiền hòa, tốt bụng.  Liên tưởng, tôi nghĩ đến bao tên cán bộ hoặc bộ đội Việt cộng khác tôi đã gặp từ ngày miền Nam "sập tiệm", tại những nơi tôi đến đăng ký cư trú, theo thuật ngữ cộng sản, hoặc xin chứng nhận giấy tờ này khác.  Tại Tổng Nha Nhân Lực, nơi tôi làm việc trước ngày đất nước lọt vào tay cộng sản, hôm tôi đến để tìm mấy quyển sách tiếng Pháp: quyển luật hiến pháp, quyển truyện phiêu lưu tình cảm La Sirène de Missisippi (Walk in the darkness) tôi đang phóng tác dự định xuất bản, mấy hôm trực đêm tại tổng nha, tôi để quên ở sở.  Gặp mấy anh bộ đội trẻ người Bắc đang canh gác, tôi hỏi họ.  Họ bảo nhau: "thôi để cho chú ấy nhận", tôi nghĩ rằng tiếng Bác họ chỉ để dành cho bác Hồ kính yêu của chúng thôi.  Nhưng chiếc Samsonite xách tay tôi cũng để quên, trong có đôi kính mát rất tốt và chiếc áo sơ mi màu ngắn tay mới may thì không thấy đâu cả.  Nó biến mất rồi.  Hồi tưởng lại hai năm trước đây khi tôi ngồi tranh cãi với Việt cộng tại Ban Liên Hợp Quân Sự Hai Bên Trung Ương ở Tân Sơn Nhất, gặp tướng Hiệp dễ nóng nảy, anh đại tá Đóa "Bắc Kỳ di cư", một cây nói móc, còn tôi, một anh Quảng Ngãi lầm lì nhưng hay chọc giận;
nhưng những người cộng sản ngồi bên kia bàn Hội Nghị, từ anh tướng Hoàng Anh Tuấn, mắt chột và kèm nhèm lúc nào cũng lấy khăn tay lau mắt, anh đại tá Võ Đông Giang, người Huế có cái miệng cá ngao, thượng tá Hoàn, người Quảng Nam, trông gian manh sau cặp kính trắng, và trung tá Bùi Kiệm, người Quảng Ngãi, chậm chạp, nặng nề.  Dù bị trêu tức đến độ nào, dù bị đuối lý, giọng lưỡi của bọn cán bộ cộng sản tại bàn hội nghị cứ giữ vẻ hiền hòa, kiềm chế, những chiếc mặt nạ không bao giờ để lộ một thoáng bực mình.  Nhưng cực kỳ nguy hiểm.  Cũng như tên cán bộ ngồi tại bàn giấy này ở Đại học xá, tuy ác ý của hắn là không muốn cho chúng tôi giữ lại giấy tờ gì của chế độ cũ, nhưng cứ làm ra vẻ nhã nhặn, lễ độ, một thứ lễ độ giết người.  Việt cộng muốn xóa hết tất cả lý lịch của những người chúng giam giữ, ngay cả cái tên gọi. Từ nay, chúng tôi chỉ là những tên tù vô danh, thuộc các trại tù không có địa danh, chỉ được gọi theo một ám số, bắt đầu bằng chữ Z.
    Theo hướng dẫn của tên cán bộ, tôi lên lầu ba, vai khoác chiếc ba lô kaki mới, do chú Thi, em họ tôi, làm thợ may may giúp hôm trước để chuẩn bị dùng để đi tù.  Mặc bộ kaki nhà binh cũ, nhuộm đen cho phù hợp với hoàn cảnh, trong ba lô còn hai bộ nữa, và một bộ pijama màu xanh, vài ba chiếc quần lót, T-shirt và chút ít thức ăn nhà đã sắm cho tôi khi tôi từ biệt gia đình.  Cũng như tất cả các bạn khác đến đây, chúng tôi từ nay phải bị cắt đứt quan hệ với tất cả những người thân, tuy chưa biết Việt Cộng sẽ đưa chúng tôi đi đâu.  Tuy trên tấm phiếu lý lịch đã kê khai lúc nãy, có ghi mục địa chỉ thân nhân để liên lạc khi cần, nhưng chắc chắn những kẻ đi tù như chúng tôi từ nay không thể nào liên lạc với gia đình, có đau ốm ra sao, gia đình không hay biết, cũng như gia đình ở nhà có việc gì xảy ra, chúng tôi không làm sao về thăm nhà được nữa.  Đã là một thế giới khác.  Lên đến lầu ba, nơi các phòng ngủ cũ của các sinh viên nội trú giờ này trống trơn, tôi đặt chiếc ba lô xuống một góc phòng để giữ chỗ như các anh khác, và ngồi ngay trên sàn gạch hoa.  Lúc ấy đã gần trưa.  Hôm nay chúng tôi ăn uống tự túc, vì mới vào trại, nên anh nào cũng có đem theo nhiều thức ăn.  Theo lời tên cán bộ ở lầu dưới, khi bắt chúng tôi đóng 1.500 đồng cho năm ngày ăn, thì bắt đầu từ ngày mai, chúng tôi mới phải ăn cơm tù.  Hôm nay thứ sáu 13 tháng sáu, như vậy phải đến hết ngày thứ tư tuần sau mới hết số tiền mình đóng.  Sau đó sẽ hay, tôi không muốn nghĩ đến nữa.
    Một lát sau, một anh bộ đội đem giấy tờ lên lầu thông báo.  Tất cả chúng tôi ở trong phòng này được ghép thành đơn vị A19 do anh Thịnh làm A trưởng.  Lúc đầu tôi chẳng hiểu A là cái quái gì cả.  Đó là một đơn vị nhỏ nhất theo hệ thống quân đội cộng sản, ngang hàng với cấp tiểu đội, trên nữa là B, ngang cấp trung đội, rồi đến C, cấp đại đội.... Cha Thịnh, nguyên là một đại tá tuyên úy công giáo, có bộ râu quai nón oai phong, trông giống một môn đồ của Chúa Jesus.  Chúng tôi gọi cha Thịnh bằng "cha" như ngoài đời, mặc dù tụi cán bộ cộng sản đều gọi các tù nhân bằng anh tất cả, và cũng bắt chúng tôi gọi nhau bằng anh, không phân biệt già trẻ lớn bé.  Nhưng các tù nhân chúng tôi lại đổi cách gọi các tuyên úy công giáo bằng "bố" dễ nghe hơn, mà Việt cộng không thể bắt bẻ được; còn các tuyên úy phật giáo chúng tôi gọi bằng "thầy".  A phó là anh Bảo, một đại tá công binh, không phải anh Bảo ngành Tổng Quản Trị ở cùng xóm với tôi.  Bảo A phó sau này có biệt hiệu là "Bảo búa", vì người anh cao lớn mạnh mẽ, lãnh trách nhiệm bửa củi cho A chúng tôi để cung cấp củi nấu ăn cho nhà bếp trại tù, đi đâu anh cũng thường cầm cái búa bửa củi cán dài.  Vào tù, phần nhiều các anh em tù nhân đặt cho nhau những nicknames để dễ nhớ, ngụ ý khôi hài, vì có nhiều người trùng tên.
    Một anh Bảo khác, Nguyễn Khoa Bảo, nguyên tham mưu trưởng tiểu khu Thừa Thiên, bị thương trận, teo bắp chân, đi dẹo dẹo, nên được đặt tên"Bảo dẹo", anh vui vẻ chấp nhận, không giận hờn gì.  Ngoài anh A trưởng và A phó ra, tất cả chúng tôi đều được gọi là cải tạo viên, Việt cộng muốn tranh hai chữ tù nhân hoặc phạm nhân.  Nếu tôi còn nhớ rõ, A chúng tôi gồm có các anh Nguyễn Lễ Trí, Cục phó Xã hội, anh này sau lên chức A trưởng thay thế cha tuyên úy Thịnh, có lẽ vì Việt cộng không muốn cho một vị lãnh đạo tinh thần đứng đầu một số tù nhân.  Các anh khác là Trần Văn Tỷ, nguyên tỉnh trưởng Tây Ninh, rất thân với Bảo búa, thường đi đâu cũng đi chung với nhau.  Ba anh Thành, một anh "Thành tòa", nguyên là thẩm phán quân sự, một "Thành trẻ", anh Đặng Phương Thành, trung đoàn trưởng thuộc Sư đoàn 7 ở Mỹ Tho, trẻ nhất đội, nằm cạnh tôi, tôi rất mến, và một "Thành già", để phân biệt với anh kia, cũng Trung đoàn trưởng, được cử làm tỉnh trưởng Bà Rịa vào những ngày áp chót.  Rồi đến Phan Công Minh, thuộc cục Quân Cụ, có thời làm phụ tá tùy viên quân lực tại Tokyo, Nhật Bản, anh cận thị rất nặng nên chúng tôi gọi là "Minh mù", vì lấy cặp kính trắng đi, anh không trông thấy gỉ hết.  Minh còn có bệnh yếu tim, hay chết giả rất nguy hiểm cho anh.  Có lần anh và tôi phải gánh một bao một tạ gạo nặng đưa xuống bếp trại, anh đi trước, tôi đi sau, bỗng nhiên anh quỵ xuống chết giả dọc đường, làm tôi cũng suýt ngả theo.  Một hồi lâu Minh mới tỉnh lại.  Trong thời gian ở các trại tù, ai cũng lo sợ cho tính mệnh anh.  Nhưng anh vẫn hoàn thành gần mười ba năm tù lao động khổ sai như hầu hết các bạn đồng cấp, được Việt Cộng trả về với gia đình cuối năm 1987, để đau đớn ra đi về thế giới bên kia đúng ngày anh được phỏng vấn để đi Mỹ theo diện HO trở về, mấy năm sau đó.  Gọi anh là "Minh mù" với tất cả lòng thương nhớ và quý mến, khi tôi viết hồi ký này, để phân biệt với hai anh Minh khác, một Minh cao học văn khoa, và một Minh, tư lệnh phó Quân Đoàn III.  Toàn là những tinh hoa của quân đội, nay phải đi tù cộng sản.  Ngoài ra, còn có Trần Công Liễu, tham mưu trưởng Biệt Động Quân, Thống và tôi, cùng một số các cựu đại tá khác.
    Đến giờ ăn trưa, mọi người chúng tôi đều lấy cơm hoặc bánh mì, thức ăn ra ăn và mời mọc lẫn nhau.  Những thức ăn còn sốt dẻo, ngon lành, gia đình mới bới cho chồng, cha đem theo lúc sáng ngày.  Miếng mè xững Huế anh Dương Ngọc Bảo mời tôi ăn trưa hôm ấy thật đậm đà hương vị.  Chúng tôi cùng kể lại cho nhau nghe những chuyện vui buồn đã xảy ra từ hơn một tháng nay tại thủ đô Sài Gòn sau khi lọt vào tay cộng sản, nếp sống gia đình, lo âu và chật vật của mỗi người trước khi ra đi "trình diện cải tạo", không hẹn ngày trở lại.  Ai cũng phải xa vợ con một cách tức tưởi, vô cùng đau khổ.  Họ nhớ lại ngày xưa, lúc mới nhập ngũ, xa gia đình gần một năm, có khi hơn, lúc đó họ là những thanh niên tuấn tú, sinh viên hoặc công chức, đáp theo tiếng gọi của non sông đất nước, nên đã tình nguyện hoặc động viên vào các quân trường miền Nam, trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam, vùng rừng thông Đà Lạt, hoặc trường Sĩ quan Trừ Bị Thủ Đức (sau này gọi là Trường Bộ Binh), trên đĩnh đồi Tân Nhơn Phú.  Nhớ những buổi rèn luyện cam go tại các thao trường nắng cháy, thử sức chịu đựng trên đoạn đường chiến sĩ, với cả chục chướng ngại vật, nào bò, trèo, nhảy cao, nhảy dài, leo tường trơn đứng, chạy băng đồng, lúc nào cũng mang theo vũ khí, đến mệt nhoài, mồ hôi lẫn nước mắt; hoặc thực tập hành quân đêm để ngủ ngoài đồng không hay rừng rậm, có thú rừng, rắn rết đe dọa quanh mình.  Tất cả những lao khổ ấy để đến ngày về vinh quang với chiếc lon vàng óng ánh trên cầu vai bộ quân phục.  Hoặc những lần đi thụ huấn một khóa quân sự ở Hoa Kỳ, thời gian năm bảy tháng, có khi cả một năm ở trên đất Mỹ, phải trải qua những ngày mủa đông tháng giá ở vùng Bắc Mỹ, tuyết phủ đầy sân, từ cửa sổ trại độc thân (B.O.Q), những anh có gia đình ở quê nhà "nhớ vợ làm sao nhớ lạ lùng".  Họ trông đợi mỗi đợt thư sang, sau buổi học về mở hộp thư P.O. Box  nhà trường ra, nếu nhìn thấy bức thư gia đình nằm ngay trong đó, mừng chao là mừng.  Lòng thương nhớ gia đình là động lực để họ cố gắng học hành, và thích thú đi mua sắm quà P.X. rất rẻ so với giá thị trường, để vợ con tha hồ may mặc, son phấn.  Giờ đây thì khác hẳn.  Việt Cộng khi vào đến miền Nam, cũng đưa ra chiêu bài "trình diện học tập", với mang theo tiền ăn năm ngày, là để lừa gạt, nhốt tất cả các sĩ quan cao cấp tại Đại Học Xá Minh Mạng này để đưa vào tù ngục, vào cõi chết, dưới những biễn ngữ dán trước cổng trường "Nơi trình diện của các sĩ quan cấp tướng và đại tá", và trước đó nữa tháng, chúng đã loan báo trên đài truyền hình lịch trình ấn định từng ngày và nơi trình điện cho tất cả sĩ quan và công chức thuộc chế độ cũ, lời lẽ nhẹ nhàng nhưng ngầm đe dọa cho những ai trốn tránh.  Không dễ gì chúng để cho chúng tôi về sau mấy ngày tập trung ở Đại Học Xá Minh Mạng đâu.
    Việt Cộng để cho chúng tôi thoải mái luôn trong ba hôm, thứ sáu, thứ bảy, và chủ nhật, không đá động gì hết.  Muốn ăn ngủ, trò chuyện, đọc sách báo đem theo, đi đứng, ra vào gì cũng được, tưởng như đi cắm trại, nhưng chỉ hoạt động trong phạm vi các dãy lầu đại học xá mà thôi, vì cổng trước, rào sau, đều có bộ đội Việt Cộng mang súng canh giữ.  Chiều chiều, ngồi ở hành lang lầu cao nhìn sang tòa nhà bên cạnh, lầu trên, từng dưới, đều đông chật các anh em đồng cấp, mỗi ngày lại thấy thêm những người mới vào sau mình.  Trông thấy ông anh rể của vợ tôi đang đứng trò chuyện với mấy người bạn khác, đại tá Huỳnh Ấn, chỉ huy trưởng Quân Vận Đà Nẳng, anh mặc chiếc áo sơ-mi cụt tay ca rô màu vàng nghệ may theo kiểu blouson anh thường mặc mỗi khi vào Sài Gòn.  Anh không thấy tôi.  Chắc anh đợi ăn mồng năm tháng năm hôm qua, món chè đậu xanh đánh hột kê theo kiểu Huế do bà chị nấu rồi hôm nay mới đi tập trung chứ gì?  Tôi nghĩ bụng: "Mình đến sớm cũng có lợi, đi ngày thứ sáu 13 và thứ bảy lại là mồng năm âm lịch nữa, theo tục lệ, đó là những ngày kiêng, nhưng nhờ đến sớm nên nắm được hết tình hình, trong lúc những người mới còn đang bở ngỡ, tìm phòng, tìm bạn".  Lác đác, tôi thấy có một số tướng lãnh, thiếu tướng T, vị sếp sòng ngành nhân viên, trung tướng K, cựu chỉ huy trưởng trường Đại Học Quân Sự, thiếu tướng H, nguyên cục trưởng cục Quân Y, trung tướng V, cựu tổng trưởng Quốc Phòng v.v... Tất cả đều như những con chim nhốt trong lòng, vùng vẫy gì cũng không ra khỏi những hàng rào song sắt. Thật là cay đắng! Công hầu khanh tướng mà làm chi!  Quyền uy sinh sát trong tay để làm gì!  Ai đó khét tiếng một thời, hôm nay cũng đành xó ró đứng ngồi trong một chiếc phòng nhỏ hẹp, mỗi bề chừng ba bốn mét.  Danh vọng hão huyền để rồi nay phải nằm trong tay những tên cộng sản.  Tất cả đều là phù du, ảo mộng, trống rỗng và hư không, một khi bức "màn tre" buông xuống ở miền Nam Việt Nam.  Sung sướng thay những người đã thoát khỏi đất nước trước ngày 30 tháng 4, nay chắc đã ở vùng đất hứa, đâu biết gì đến nỗi gian khổ của những bạn đồng ngũ của mình hiện đang bị giam giữ tại đây.
    Như tên cán bộ Việt cộng đã thông báo cho chúng tôi ngày đầu nhập trại, sáng thứ bảy nhà hàng Siêu Quần ở Chợ Lớn bắt đầu cho xe mang quà sáng đến cho các tù nhân chúng tôi.  Bữa ăn sáng gồm  có một ổ bánh mì nhỏ kẹp thịt và một ly giấy cà phê sữa.  Bữa trưa có ba món, món xào, món thịt hoặc cá chiên, kho và một bát canh, cơm trắng.  Sáu người ghép lại thành một mâm, ăn chung với nhau, theo thứ tự ai đến trước sau, ăn tại nhà ăn cũ của sinh viên.  Bữa tối cũng như vậy. Giá cả như thế, 300 đồng cho mỗi ngày ăn ba bữa, kể cũng phải chăng, kể từ ngày "sập tiệm".  Đâu còn thời đại huy hoàng của nhiều sĩ quan cao cấp, được đãi đằng tùng tiệc quanh năm tại những nhà hàng tàu sang trọng ở Sài Gòn, Chợ Lớn như Đồng Khánh, Ngọc Lan Đình, hoặc kín đáo hơn ở các "xéc" Đỏ, Tím, có rượu ngon, gái đẹp ngồi kề.  Trong các bữa tiệc linh đình ấy, gồm có gần chục món ngon lành, khi gần cuối tiệc, nhà hàng dọn lên món heo sữa quay ăn với bánh bao, thực khách thấy ngán lên tận cổ, chỉ có gắp qua loa một vài miếng thịt nào dòn nhất, cắn một chút bánh bao, rồi đến cơm chiên dương châu, ai nấy đều xem như bỏ cuộc, chờ ăn tráng miệng.  Nay nhìn thức ăn nhà hàng Siêu Quần mang đến, một anh đơn giản nói: "Đi tù mà ăn uống như thế này thì chịu quá!".  Một anh khác ngây thơ hơn phát biểu: "Họ bảo mình tập trung học tập để xem mình có tuân theo mệnh lệnh nhà nước hay không đó thôi.  Xong năm ngày tập trung là mấy ổng cho về hết đây mà!".  Tối hôm đầu và tối hôm thứ hai, một số các anh A phó tự động làm gương đi lấy xô hứng nước máy, lấy khăn, chổi, lau chùi nhà cửa rất sạch sẽ, từ phòng ngủ, buồng tắm, đến hành lang, cầu vệ sinh, để chứng tỏ mình bắt đầu cải tạo tốt, qua lao động cần cù.  Biết đâu không có anh cán bộ cộng sản nào đi kiểm soát, thấy các nơi đều sạch sẽ, sẽ đánh giá tốt, một yếu tố để được về sớm chăng?  Một vài anh "cải tạo viên" yếu bóng vía cũng bắt chưóc anh A phó của mình đi lấy nước lau chùi buồng tắm, hành lang.
    Ngày chủ nhật 15 tháng 6, việc sinh hoạt vẫn bình thường.  Nhà hàng Siêu Quần vẫn tiếp tục mang thức ăn đến, tuy phẩm chất có phần kém hơn hôm đầu.  Số tiền ăn vẫn phải nộp bằng nhau.  1.500 đồng, mặc dù bạn đến tập trung ngày đầu, ngày thứ hai, hoặc ngày thứ ba.  Các trại viên suy luận với nhau, chắc khi hết hạn năm ngày, những người đến hôm đầu phải đóng thêm một đợt tiền ăn khác, trước các anh đến sau.  Đêm 15, như thường lệ, một số các trại viên lấy nước, chùi sàn nhà, buồng tắm, vệ sinh, trước khi ngã mình trên chiếu cá nhân trải trên sàn nhà để ngủ.  Chiều hôm ấy, đứng ở hành lang lầu tôi nhìn ra, tôi thấy hầu như  đã đông đủ bá quan hàng tướng lãnh và đại tá còn kẹt lại.  Tôi nghĩ bụng: "Hình như không đi thoát được bao nhiêu".  Mọi người hai lầu song song vẫy tay chào nhau, bạn tưởng tôi không có mặt, bụng mừng cho tôi, tôi không thấy bạn, cũng tưởng bạn đi rồi.  Giờ đây cùng chung một số phận, giờ thứ hai mươi lăm.  Chúng tôi buông mùng xuống để ngủ, nhưng vẫn còn trò chuyện với nhau qua lớp màn tuyn đơn chiếc không che nỗi sầu đời.  Nghĩ đến người thân ở nhà giờ này đang làm gì.  Có anh chưa nằm, còn ngồi suy nghĩ vẫn vơ, nhớ nhà qua khói thuốc.  Thoảng nghe có tiếng thở dài.  Thiếp đi lúc nào không biết trong một niềm mơ ước ngày mai tươi sáng hơn.
    Bỗng có tiếng còi huýt lên từng hồi liên tiếp, lanh lãnh giữa đêm trường. Tất cả đèn đuốc tại Đại Học Xá đều bật lên sáng trưng, khắp các phòng, ở các dãy hành lang, ngoài sân, ngay cổng trại.  Hình như mọi hệ thống ánh sáng trong khu vực đều được tăng cường về đây trong đêm nay, thắp sáng rực trời.  Tất cả chúng tôi đều giật mình ngồi dậy, hốt hoảng, không biết việc gì, nhưng ai cũng đoán là có một điều gì quan trọng sắp xảy ra.
    Chúng tôi vội vả cuộn mền, chiếu, tháo mùng, vừa nghe ngóng.  Tiếp theo, một giọng nói oang oang trong chiếc loa phóng thanh đặt đâu đấy không rõ, mục đích để mọi người cùng nghe.  Giọng nói trong loa ra lệnh cho tất cả các cải tạo viên phải chuẩn bị hành trang nhanh chóng, xuống tập họp ở hội trường đại học xá để đi hành quân đêm.  Các tên cán bộ Việt Cộng mấy hôm nay như biến mất, giờ này xuất hiện rất đông, đi khắp các phòng để đốc thúc các tù nhân ra tập họp gấp.  Vội quá, tôi chỉ rửa mặt qua loa, thay gấp quần áo, mang ba lô sau lưng, tất bật đi họp cùng với các anh em khác, trong tiếng thúc giục của loa phóng thanh, dưới những ngọn đèn rực rỡ.  Xuống đến hội trường đại học xá, đã thấy khá đông các đại tá đứng sắp hàng đấy rồi.  Một số ít người còn chậm bước, lục tục đến sau, ai nấy đều mang theo đầy đủ hành trang của mình.  Chúng tôi tập họp theo đội ngũ chỉnh tề, thành từng hàng dọc dưới một mái hiên rộng, làm thành hai khối đối diện nhau, chừa khoảng giữa làm lối đi.  Không thấy một vị tướng nào. Sau đó mới biết là các tướng lãnh đã được đưa đi trước đó rồi, chỉ còn lại các đại tá.  Tôi đứng đầu một hàng dọc bên khối này, bộ quân phục kaki cũ nhuộm đen, ba lô đeo sau lưng.  Nhìn sang bên kia, thấy chị Trần Cẩm Hương, trưởng đoàn nữ quân nhân, cũng đứng đầu một hàng dọc khác.  Chị mặc bộ đồ bà ba đen mịn tuy không son phấn, dưới mái tóc phồng phồng cắt cao.  Nhìn thấy tôi, chị Hương ứa nước mắt, khiến tôi vô cùng cảm động, muốn mũi lòng, nhưng cố cầm giữ, nghĩ mình dù sao cũng là kẻ nam nhi.  Tại sao chị ứa nước mắt? Chắc chị nghĩ: "Tại sao chúng mình ra nông nỗi này?".
    Chị Hương và tôi cùng một ngành chuyên môn trong quân đội. Chị là trưởng đoàn nữ quân nhân trong thời gian tôi làm trưởng phòng Tổng Quản Trị Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.  Mỗi buổi chiều thứ hai hàng tuần, chị và tôi cùng đi họp tại tòa nhà lớn bộ Tổng Tham Mưu, dưới quyền chủ tọa của vị tham mưu trưởng Liên Quân.  Buổi sáng thứ hai thì có lễ chào quốc kỳ cho tất cả sĩ quan Bộ Tổng Tham Mưu, có đại tướng Cao Văn Viên Tổng Tham Mưu Trưởng duyệt binh và chủ tọa lễ thượng kỳ, sau đó, tất cả tướng lãnh, trưởng phòng, cục trưởng đều vào Trung Tâm Hành Quân cạnh đấy để tham dự thuyết trình hành quân.  Tôi còn nhớ rõ mới ngày nào đó, trong buổi họp tham mưu đầu tuần, tại căn phòng họp dài có đặt máy lạnh mát rợi, chị Hương thường ngồi bên tôi, để khi có vấn đề gì về nhân viên có liên quan đến nữ quân nhân, tôi cần tham khảo ý kiến của chị để trả lời trước hội nghị.  Chủ tọa các buổi họp tham mưu hàng tuần là trung tướng Trần Thanh Phong, lúc ấy làm Tham mưu trưởng Liên Quân, đẹp trai trông giống tài tử ciné Robert Mitchum, và ăn mặc quân phục tác chiến rất bảnh bao.  Trung tướng Phong ngồi ở đầu một chiếc bàn dài ngay cửa ra vào phòng họp, mặt bàn phủ khăn nỉ màu xanh lục và có mặt kiếng đặt bên trên.  Ngồi hai bên tướng Phong, dọc theo mấy chiếc bàn dài kê nối đuôi nhau là các tướng Trung, tổng cục trưởng Chiến Tranh Chính Trị, Khuyên, tổng cục trưởng Tiếp Vận, Trang, tham mưu phó Nhân Viên, và một vài tướng lãnh khác ở Sài Gòn.  Kế đến là các trưởng phòng Bộ Tổng Tham Mưu, đại tá Cả, trưởng Phòng Nhất, người cao lớn, mặt thường đỏ rần như một chú gà tây, đại tá Thọ, trưởng Phòng Ba, sau này được lên chuẩn tướng, đại tá Thiệp, trưởng Phòng Nhì, người Huế, ăn nói nhỏ nhẹ dễ thương, đại tá Quỳnh trưởng Phòng Năm, đằm thắm, sâu sắc, các trưởng Phòng Sáu, Phòng Bảy, chỉ huy trưởng Trung Tâm Hành Quân đại diện các binh chủng và binh sở, chị Hương và tôi.  Với chiếc mủ ca-lô đội lệch, người chị chửng chạc, bệ vệ, hiền lành, nụ cười luôn nở trên môi, một nụ cười khoan dung và tha thứ, trông chị đúng là một vị chỉ huy một ngành gồm phần nhiều người đẹp và duyên dáng, tô điểm cho quân đội, nhưng cũng phục vụ rất đắc lực trong các công tác văn phòng nếu được gặp các cấp chỉ huy biết xử dụng tốt.  Giờ này nhìn thấy tôi chị ứa nước mắt, có lẽ chị thương tôi, và gợi lại những kỷ niệm những buổi họp chung, ngồi gần tôi trò chuyện, mới ngày nào tôi còn là một sĩ quan văn phòng, trong bộ quân phục tác chiến bắt buộc cho quân nhân các cấp lúc bấy giờ, không phân biệt trung ương hay đơn vị.  Bộ quân phục ấy, lúc nào cũng được ủi hồ láng cóng, đôi giày vải ngành Marines Mỹ, nữa đen, nữa anh màu lá mạ mới tinh, đi ra một bước là leo lên chiếc xe Jeep ngồi, do chú Hinh lau chùi bóng lộn, người tài xế đã  phục vụ cho tôi trong bao năm, rất tận tâm và  vô cùng tháo vát.  Nay trông thấy tôi có vẻ thiểu não, ốm yếu, bơ phờ, chắc chị nghĩ tôi làm sao chịu nỗi cảnh tù đầy của cộng sản, với bao nhiêu gian lao cay đắng đang chờ đợi chúng tôi.  Những ngày xưa thân ái ấy nay đã qua rồi, trôi qua vĩnh viễn.
    Một tên cán bộ cộng sản cấp sĩ quan cầm một danh sách dài đánh máy, đến chỗ tập họp, điểm danh chúng tôi.  Khi đọc đến tên ai, người ấy hô to "có mặt" rồi bước ra khỏi hàng, và được hướng dẫn bước xuống tam cấp tiến ra sân, đến một đoàn xe vận tải lớn đang đậu lù lù trong bóng tối, đèn pha mở sáng trưng, đèn xe sau rọi vào hông xe trước.  Tất cả các xe đều để nổ máy nhẹ nhẹ, chờ di chuyển.  Đó là những xe GMC của quân đội cũ bỏ lại, xen lẫn với mấy chiếc xe Molotova của Liên Xô.  Xe nào xe nấy đều bỏ mui hai bên xuống, gài kín mít.  Thành xe được đóng lại, phải trèo qua phía sau để lên xe.  Rải rác dọc theo đoàn xe nhà binh, là những tên bộ đội Việt Cộng, súng AK cầm tay, lựu đạn mang quanh mình, đang chờ đợi để lên xe hộ tống tù.  Tôi đi theo mấy người bạn cùng một A khi được gọi đến tên để leo lên chiếc xe thứ ba.  Hai xe đầu đã đầy nhóc người.  Khi đã đủ số tù cho một chiếc xe khoảng bốn chục người -- bốn anh lính Việt Cộng cùng leo lên sau cùng, chia nhau ngồi bốn góc thành xe, quay lưng ra ngoài, mặt hướng về phía chúng tôi, mũi súng chĩa xuống đất.  Việc lên xe rất vất vả và chậm chạp, tôi để cho các bạn kia trẻ hơn leo lên trước, tôi cẩn thận trèo lên sau, sợ vấp ngả, biết rằn từ nay phải giữ gìn hết sức, nếu lỡ xảy ra tai nạn gì là thiệt thân, không ai lo cho mình.  Vào được bên trong, mọi người đều ngồi thụp xuống sàn xe, hai hàng ghế bên hông đã được tháo gở để có thể chứa nhiều tù.  Chúng tôi ngồi im lặng, xót thương cho thân phận mình.  Nếu có cử chỉ gì chống đối hay bạo động là chúng sẽ sát hại mình ngay trong sàn xe, không thương hại.  Nhưng cả tiếng đồng hồ rồi mà chỉ mới mấy chiếc xe đầu có người, nhiều xe sau còn đang lục tục cho tù lên xe.  Chắc phải chờ đợi còn lâu lắm!  Nhiều anh đã bắt đầu mót tiểu, nhưng đành nhịn vì lính Việt Cộng không cho ai được leo xuống hết, một khi đã lên xe, dù có xin phép chúng.  Không biết các anh ở hai xe đầu còn khổ sở đến đâu!  Họ lên xe trước chúng tôi có nửa tiếng.  Tôi vừa mệt mỏi, vừa buồn ngủ, vừa muốn đi tiểu, nhưng phải cắn răng chịu đựng.  Các anh khác chắc cũng vậy.  Than thở cùng ai!  Hai bàn tay sờ soạng trong bóng tối xem có chiếc ba lô đã đặt xuống không, vì từ nay đó là tất cả tài sản của mình.  Có người mệt quá thiếp đi.  Chờ đợi thêm nửa tiếng, một tiếng đồng hồ không biết nữa. Động cơ xe vẫn nổ máy đều đều.  Tôi mơ màng nhớ lại ngày trước có đọc cuốn truyện "Giờ thứ 25" của Victor Georghiu mô tả cảnh đoàn xe những người Do Thái bị lính Đức Quốc Xã đày đi trong đêm khuya có vẻ giống cảnh này.  Càng nghĩ càng thấm thía. 
    Bỗng có lệnh cho đoàn xe chuyển bánh.  Tiếng động cơ nổ mạnh hơn.  Đèn pha xe tắt hết, chỉ để đèn cốt.  Các anh bộ đội có phận sự hộ tống xe nào đều đã leo lên xe nấy.  Mọi người đều cảm thấy thoải mái, vì khi xe chạy ra khỏi trại, hy vọng có gió mát và chỗ ngồi được thoáng hơn, chứ từ nảy đến giờ với hơn bốn chục người dồn vào một chiếc xe bịt bùng, chật như nêm, ngột ngạt hết sức.  Vì ngồi thụp xuống sàn xe như ngồi trong một lõm sâu, tôi chỉ có thể nhìn lên một nền trời đen trên cao, thấp thoáng qua ánh đèn đường, và những ngọn cây hai bên đường để đoán chừng đoàn xe đi về hướng nào.  Nhưng đành chịu. Ra khỏi cổng Đại Học Xá, đoàn xe rẻ về phía tay trái, nhưng sau đó lại chạy vòng quanh như để cho tù lạc hướng.  Khoảng hơn nửa giờ sau, hình như đoàn xe dừng lại khá lâu trước dinh Độc Lập, vì thoáng thấy những ngọn me cao, và chóp các cọc hàng rào sắt nhọn.  Có lẽ chúng đang đợi lệnh Ủy ban Quân Quản đang đóng tại đấy.  Chúng muốn bảo vệ bí mật đến giờ phút chó địa điểm chở tù.  Ra khỏi thành phố, đoàn xe tăng tốc độ, chạy một mạch lên xa lộ Biên Hòa theo lời một vài anh em ngồi sát phía sau lén nhón lên dòm và thông báo lại cho người khác.  Đúng vậy, bầu trời trở nên khoáng đảng, không một ngọn cây nào xuất hiện ở vòm trời sau xe.  Gió từ mặt sông đưa lên thật mát.  Thôi, chúng muốn chở đi đâu cũng được, chỉ mong chóng đến nơi để xuống, chứ cuồng chân quá, và bí tiểu vô cùng, căng cứng bàng quang.  Sau này mới biết, có nhiều anh không chịu nỗi, đã đi giải ngay trong quần, thấm ướt cả sàn xe.  Không thể làm sao hơn được.  Bản năng sinh tồn. Tờ mờ sáng hôm sau, ngày 16 tháng sau, đoàn xe tù dừng lại tại một vùng rừng núi, cạnh một doanh trại cũ của Quân Đội, giờ đây vắng tanh, đổ nát, cỏ lẽ đã xảy ra một trận ác chiến trước đây.  Đây là vùng Long Giao thuộc tỉnh Bà Rịa, theo mấy anh ở đơn vị tác chiến đã đi hành quân ở vùng này.  Chúng tôi vẫn ngồi yên trên xe, chờ đợi.  Một lát sau mới có lệnh cho tù xuống.  Mấy anh bộ đội nhảy xuống trước, mở chốt bức thành sau của xe, hạ thấp xuống, để mọi người có thể nhảy xuống thoải mái.  Tôi chưa đến vùng này lần nào, chỉ thấy đồi núi cây rừng, trong cảnh trời mờ sáng âm u.  Công việc đầu tiên của mọi người là giải quyết vấn đề vệ sinh, không thể chần chờ được nữa.  Thôi thì bụi chuối, gốc cây, không ai để ý đến ai trong buổi sáng tinh sương.  Bưóc chân đi khập khiểng sau một đêm không ngủ, hồi hộp, phải ngồi bó gối, đường xa, chân cuồng, lưng mõi.  Trông xa xa, các tù nhân như những bóng ma đang lảng vãng ở ven đồi một vùng rừng núi xa xăm.  Mới ngày nào đây, họ còn là những đại tá của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, khỏe mạnh, đẹp trai, hùng dũng trong bộ quân phục tác chiến.  Còn các trung tá, thiếu ta, và những sĩ quan cấp úy của quân đội miền Nam, một quân đội đứng vào hàng thứ tư trên thế giới, với những chiến công oanh liệt, Việt Cộng đã đưa đi đâu, nào ai biết được.  Tất cả từ nay đều là những người tù của cộng sản, không có bản án, không biết ngày nào về.  Địa ngục cộng sản bắt đầu từ đây.
Đức Nguyên
Ngẫm từ khởi việc binh đao
Đống xương Vô-Định đã cao bằng đầu
Làm chi để tiếng về sau
Ngàn năm ai có khen đâu Hoàng Sào (1)
(Nguyễn Du)
-------------------------------------------------------------------
(1) Hoàng Sào là một nho sĩ đời Đường thi không đậu, dấy quân làm loạn, chiếm kinh đô được 10 năm.  Về sau Hoàng Sào thua trận, bị thủ hạ giết chết.


"Nhìn Lại Khóa 3 Thủ Đức Sau Gần Nửa Thế Kỷ" với những kỷ niệm theo gót chân đời chiến binh của đại tá Đệ. Khóa 3 Thủ Đức là đồng môn với "Sinh Vi Tướng - Tử Vi Thần" anh hùng Nguyễn Khoa Nam.

Đa số sinh viên sĩ quan trừ bị Khóa 3 là những sinh viên, công tư chức hoặc hành nghề tự do được gọi nhập ngũ vào năm 1953. Lệnh động viên đã làm thay đổi hẳn cuộc đời, chặn đứng một sự nghiệp đang theo đuổi hay tạo một tương lai hoàn toàn mới ngoài ý nguyện nguyên thủy của mỗi sinh viên nhập ngũ. Bây giờ ngồi phân tích lại những thành quả của Khóa 3, tôi cảm thấy buồn vui lẫn lộn, không tiếc hối những gì đã đến với cuộc đời mình, nhưng tiếc là kết cuộc đã xảy ra không như ý muốn. Hồi tưởng lại thời gian mới nhập ngũ tại ngôi trường rộng lớn trên đồi Tăng Nhơn Phú có cột dây thép gió cao vòi vọi, nằm cách chợ Thủ Đức không xa, tôi vẫn cảm thấy bồi hồi với bao nhiêu kỷ niệm vui, buồn đã một thời cùng chia sẻ với bạn bè chung khóa.

Sở dĩ chúng tôi nhận được giấy gọi động viên vì nhu cầu chiến trường thời bấy giờ đòi hỏi. Sau Thế Chiến Thứ Hai, các đế quốc dần dần trao trả độc lập lại cho dân thuộc địa. Các đại cường như Anh, Mỹ đã chuẩn bị từ bỏ quyền cai trị ở nhiều nước từng là thuộc địa của họ, riêng Pháp và Hòa Lan là cố níu, không chịu buông rơi các thuộc quốc. Vì vậy, đã đưa đến chiến tranh Pháp-Việt từ năm 1946, một cuộc chiến đã lôi cuốn nhiều lớp thanh niên, đa số vì chống thực dân nên ra chiến khu. Sau nhiều năm cố gắng bình định mà không có kết quả, người Pháp đã trao cho Cựu Hoàng Bảo Đại những gì mà lãnh tụ Cộng Sản họ Hồ tranh đấu không được: đó là nền độc lập với quân đội riêng, hai điều kiện này ghi rõ trong các Hiệp Định ký kết với Pháp năm 1947 và 1948 ở Vịnh Hạ Long và ở Điện Elysée, Paris. Năm 1950, Quân Đội Quốc Gia Việt Nam chính thức thành lập, một nhu cầu cấp bách nẩy sinh là làm sao có đủ sĩ quan chỉ huy các đơn vị, điều hành các ngành chuyên môn? Các trường võ bị địa phương, các lớp tu nghiệp hạ-sĩ-quan đào tạo không được bao nhiêu chuẩn úy, còn trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt thì thời gian học tương đối lâu và số sinh viên thu nhận không nhiều nên các chính phủ kế tiếp thời đó đem thi hành một chính sách chung của các quốc gia thời chiến, đó là "động viên" ngõ hầu có nhân lực tham chiến. Trường Sĩ Quan Trừ Bị ra đời với khóa 1 khởi sự tại Nam Định (Bắc Việt), khóa 2 tại Thủ Đức (Nam Việt) và sau khi khóa 1 mãn khóa thì các khóa sĩ quan trừ bị kể từ khóa 3 về sau đều tập trung học ở Thủ Đức. Sau nhiều ngày chịu say sóng trong hầm tàu Gascogne xuôi Nam từ miền Bắc hoặc Saint Michel từ miền Trung, chúng tôi tới trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức vào khoảng đầu năm 1953. Những chàng sinh viên sĩ quan trừ bị (SVSQTB), thời đó gọi theo Pháp là EOR (Elève Officier de Réserve) khóa 3, trong đó có cả Nguyễn Khoa Nam được phân phối vào những dẫy nhà mới xây cất, khá tiện nghi. Chúng tôi may mắn hơn các đàn anh học khóa trước vì không phải sống trong các ba-rắc tạm bởi cơ sở nhà trường lúc đó đã tương đối hoàn chỉnh sau khi huấn luyện xong khóa 2, một khóa có sĩ số sinh viên sĩ quan khá cao so với khóa 1. Chỉ Huy Trưởng Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức lúc đó là Thiếu Tá Bouillet, Giám Đốc Huấn Luyện là Đại Úy Pichenet và đại đa số cán bộ chỉ huy, tham mưu và huấn-luyện-viên là người Pháp mà chuyển ngữ dùng trong công tác huấn luyện cũng là tiếng Pháp. Chúng tôi phải kinh qua một chương trình huấn luyện cực nhọc ngõ hầu ra trường chỉ huy một trung đội vài chục binh sĩ ở một nơi xa xôi nào đó.

Tổng số SVSQTB được gọi trong khóa 3 là 750, thuộc đủ mọi giới, công chức cao cấp và trung cấp, tư chức, sinh viên, học sinh, doanh gia và chuyên gia. Phần đông sinh viên khóa này tuổi từ 20 đến 35, có bằng Trung Học trở lên. Thể lực không đòi hỏi cao độ như sinh viên sĩ quan hiện dịch, mà các sinh viên khám sức khỏe được xếp vào hạng dịch vụ thiểu động(service sétendaire) cũng đủ sức để phục vụ (bon pour le service) vì quân đội có nhiều nha, sở không tác chiến chỉ cần sĩ quan tham mưu và điều hành. Khóa 3 khởi sự học vào tháng Tư, 1953 và thời gian thụ huấn là 6 tháng: 2 tháng đầu dành cho cơ bản quân sự, 4 tháng sau học chuyên ngành.

Quân số khóa 3 được phân phối như sau: 4 đại đội Bộ Binh, mỗi đại đội gồm có 136 SVSQ. Mỗi đại đội được gọi đùa là sư đoàn gồm 6 trung đội, mỗi trung đội thuộc một ngành chuyên môn như Kỵ Binh Thiết Giáp, Thông Vận, Pháo Binh, Truyền Tin, Công Binh, Quân Cụ.

Các cấp chỉ huy khóa sinh hầu hết là sĩ quan Pháp, chỉ có vài trung đội trưởng là người Việt, đa số tốt nghiệp Võ Bị Liên Quân. EOR Nguyễn Khoa Nam được sung vào Trung Đội 16, Đại Đội 4 do Trung Úy Nhung làm Trung Đội Trưởng và Đại Úy Lévêque làm Đại Đội Trưởng và lưu trú tại tòa nhà gần phạn xá.

Việc phối trí các EOR hoàn toàn do sĩ quan giám đốc học vụ quyết định, ông này xem qua hồ sơ, ghi ngành và trung đội, không cần trắc nghiệm tâm lý từng người để xem khả năng của họ thích hợp với ngành gì như sau này thường làm; do đó, một tay ông tạo nên cả một binh nghiệp, một đời mới cho bao nhiêu người. Anh em khóa sinh mới bị động viên còn là lính mới tò te, nhiều khi không hiểu ông sĩ quan giám đốc cho mình về binh chủng hay nha sở nào nữa, ví dụ có anh chỉ định về “Train” thì tưởng là sẽ đi coi xe lửa, có anh được ghi là “ABC” thì chẳng biết nó là cái chi chi, sau này vỡ lẽ là Thiết Giáp (Arme Blindée et Cavalerie).

Cùng lúc với việc tuyển chọn khóa sinh vào các ngành, nhà trường cấp phát quân trang quân dụng, biến các cậu các ông dân sự quần áo giầy dép đủ kiểu, đủ màu thành những chú lính với bộ quân phục đồ cụt màu xanh đậm duy nhất, có tên lạ hoắc là màu réséda. Giầy hai màu (deux couleurs) thời trang thì bị thay thế bằng giầy lính tẩy nặng trịch, đế đầy đinh, mang tên là brodequin, hôi mùi da bò. Anh nào có bộ tóc bồng bềnh, gọi là tóc “phi-lô-dốp” thì lập tức được chỉ thị lên câu-lạc-bộ (foyer) hớt thật ngắn, khi về phòng anh em khó mà nhận ra anh chàng là người cùng phòng trước khi hớt tóc, đúng với câu “cái tóc là gốc con người.” Râu ria cũng bị cạo trụi, mất hết vẻ oai hùng của “đấng mày râu.” Riêng đám anh em người Nam, vốn nhập trường trước, trong khi các anh em Trung Bắc còn lênh đênh trên biển cả, anh em miền Nam tỏ vẻ thông hiểu luật lệ nhà binh hơn vì được nhập trường trước, trong lúc các anh em Trung, Bắc vô sau, cảm thấy sợ sệt, thường vây quanh hỏi han, vấn kế những anh vô trước, đặc biệt là về tính tình của mấy cấp chỉ huy trực tiếp. Tuy thế, nhiều khi tin tức, chỉ dẫn cũng trật lất, lý do anh nào cũng mới gia nhập đời sống quân ngũ, trừ một số nhỏ cựu quân nhân cấp hạ-sĩ-quan được gởi đi học để thăng cấp. Các anh hạ-sĩ-quan này được bạn đồng học ưu ái, coi như đàn anh, khi có thắc mắc về quân kỷ các bạn líu ríu đến cầu cứu, tham khảo ý kiến của các cựu binh “tiền bối” này. Thực vậy, trong giai đoạn 1, huấn luyện quân sự căn bản, môn quân kỷ và tác chiến là hai môn chính khi thi mãn khóa giai đoạn nên anh em dù cố dùi mài, ghi chú, học thật kỹ lưỡng nhưng vẫn lờ mờ nên cần đến sự chỉ dẫn thêm của các cựu binh. Hai môn học này do các trung đội trưởng phụ trách.

Các môn học khác như Võ Khí, Địa Hình, Truyền Tin .... thì đã có ban đặc trách huấn luyện. Khóa 3 cũng như hai khóa 1 và 2 còn dùng tiếng Pháp làm chuyển ngữ vì đa số trung đội trưởng và huấn-luyện-viên là sĩ quan Pháp biệt phái. Anh em khóa sinh gặp những thuật ngữ quân sự mới lạ, chẳng có tự điển nào có, học hành khó khăn và trở ngại không ít. Hơn nữa, không phải khóa sinh nào cũng học Trung Học qua chuyển ngữ Pháp Văn. Nhiều bạn trẻ tuổi theo chương trình Việt Văn vấp phải “rào cản ngôn ngữ” vì vậy đã có những khóa sinh không đậu giai đoạn 1 và bị gởi ra đơn vị. Các anh này nếu học các khóa sau, dậy bằng Việt ngữ, chắc sẽ qua cầu không bị đánh trượt.

Chương trình huấn luyện, theo một sĩ quan huấn luyện viên tiết lộ, dựa theo trường Fréjus bên Pháp trong khi trường Võ Bị Liên Quân thì căn cứ vào chương trình của Coetquidan (trường đào tạo sĩ quan của Pháp thay thế trường Saint Cyr chưa phục hoạt sau Thế Chiến 2). Dù chương trình huấn luyện ở Thủ Đức tương đối dễ thở hơn, nhưng anh em khóa sinh đâu biết trời trăng gì, chỉ thấy bị nhà binh quần thảo, không đủ thì giờ nghỉ ngơi nên anh nào anh nấy "than Trời như bộng." Khi còn ở ngoài đời sống dân sự thì lè phè quen, nay nhập ngũ, quân kỷ thắt chặt, đi ăn cũng xếp hàng, đi đều bước, giường nệm gấp đúng qui luật, giầy săng đá phải chùi láng, và bao cái linh tinh khác hành xác mệt nhừ, tinh thần căng thẳng... Từ 5 giờ sáng có lệnh đánh thức để tập thể dục, gọi là xả mỡ (dégraissage), dù mấy thư sinh bạch diện gầy ốm tong teo đâu có mỡ để xả bớt.

Nhưng đau khổ nhất là khóa sinh bị cấm trại, không được đi phép, không được xuất trại trong gần hai tháng học giai đoạn 1. Vốn quen sống gần gia đình, vợ con, anh em nào bị cấm trại thì nhớ nhà vô kể, ngày Chủ Nhật được nghỉ trở thành những Chủ Nhật Buồn. Ngày đó anh em thi nhau viết văn, văn đây là những bức thư kể lể cuộc đời mới cho gia đình, cho người yêu. Người gởi thư cũng như người nhận bắt đầu quen thuộc dần với cái KBC 4100 xa xôi và không có gì quí hơn đối với khóa sinh là thấy nhân viên phát thư mệnh danh là vaguemestre chia thư tín cho các trung đội mang về cho các anh em. Tám tuần lễ học làm lính sao nó lâu thế! Mấy môn học mới lạ và rắc rối khiến nhiều anh em phải mua đèn cầy học thêm sau giờ tắt đèn đi ngủ. Môn hóc hiểm là tháo ráp cây súng nặng trịch Garant M-1, lúng túng là đọc tọa độ UTM, dễ lầm lộn là mấy chiếc nút trên máy tuyền tin dã chiến ... Những giờ thực hành tác chiến, tổ chức địa hình, tác xạ ngoài bãi còn cực nhọc hơn nữa, đa số khóa sinh là công tử, nhàn hạ quen, nay phải đổ mồ hôi tại thao trường, đào hố cá nhân trên đồi đất đỏ khô cằn, chạy đoạn đường chiến binh... anh nào anh nấy thở không ra hơi, nhất là các anh gốc Trung hay Bắc, chưa chịu nắng miền Nam bao giờ. Trong khi đó thì các thầy, các trung đội trưởng lại rất hắc, rất khó, để ý từng chi tiết, bắt ne bắt nét từng lỗi lầm nhỏ nhặt để la rầy, mục đích là uốn nắn những thanh niên đang sống đời tự do phóng khoáng, tùy thích cá nhân, biến cải họ thành những cấp chỉ huy có kỷ luật, biết sống trong tập thể, dám hy sinh... Nhưng lúc đó, anh em khóa sinh bị “quay” quá thì lại nghĩ rằng thì lại nghĩ rằng mấy thầy đi lính trước mình mấy năm, tính hách xì xằng, được dịp hạch sách thì ra tay “hành” bọn đàn em, ỷ vào nguyên tắc quân kỷ: thi hành lệnh trước đã, muốn gì khiếu nại sau. Vì quân kỷ là sức mạnh của quân đội, cho nên dù một lệnh lạc dù có kỳ quặc cũng phải thi hành cái đã, không oong đơ gì cả. Có buổi trưa nắng, tự nhiên có lệnh cho khóa sinh ra ngồi giữa sân cả nửa giờ đồng hồ, rồi có lệnh cho vô nhà, khơi khơi vậy thôi, cũng phải răm rắp thi hành lệnh vô bổ đó. May mà ở Thủ Đức không có khóa đàn anh, không có tập tục “huấn nhục” đàn anh hành đàn em, một tập tục truyền thống của các trường đào tạo sĩ quan.

Trong tiến trình huấn luyện, thời gian không qua mau, nhưng rồi cũng đến ngày hết giai đoạn 1. Khóa sinh được đeo Alpha, và quý báu hơn cả là được đi phép sau bao ngày cấm cung trên đồi Tăng Nhơn Phú. Anh em gốc miền Nam là mừng hơn cả vì được về nhà thăm vợ con hoặc bạn gái thân thương. Anh em gốc Trung, gốc Bắc cũng có dịp đi chơi Sài Gòn-Chợ Lớn, ghé Kim Chung, Đại Thế Giới ... Khi đi phép, anh em được lệnh là không được mặc quần áo dân sự nhưng ngay hôm sau, đã gặp nhau trên đường Catinat trong bộ đồ civil thời trang rồi. Nếu vô phúc gặp trung đội trưởng thì lẩn cho mau kẻo kỳ sau mất phép, và cuối khóa mất code d' amour, tức điểm cảm tình, một số điểm rất quan trọng để thăng quan. Số điểm này hoàn toàn do huấn-luyện-viên cho khóa sinh một cách chuyên đoán, tùy hỉ, ưa thì cho nhiều, ghét thì cho ít hoặc không cho điểm nào cả.

Qua lần đi phép đầu tiên, sau đó, khóa sinh cứ 2 tuần lễ được đi phép một lần và sau khi qua giai đoạn 1, lương được tăng ngang mức lương hạ-sĩ-quan, nhưng khóa sinh gốc công chức thì vẫn lãnh tổng số lương như cũ (vì lương sai biệt bị trừ bớt một số tiền bằng với số gia tăng của lương nhà trường phát). Đó là trường hợp của EOR Nguyễn Khoa Nam và các đồng liêu công chức. Riêng các anh em sinh viên tư chức có thêm chút tiền túi, ăn tiêu rủng rỉnh hơn khiến câu-lạc-bộ đắt khách hơn và các chị ở trại gia binh tối tối mang hột vịt lộn lên bán cũng đắt hàng hơn. Tới lúc đó thì cuộc sống quân trường của các khóa sinh tạm gọi là ổn định. Các anh em được chọn vào ngành chuyên môn phải học nhiều về kỹ thuật, thường là học trong lớp nên không còn phải ra bãi tập nhiều như trước, vì phải học nhiều về kỹ thuật, thường là học trong lớp vì lâu lâu mới có bài tập dã chiến. Dĩ nhiên là các binh chủng chiến đấu như thiết giáp, pháo binh vẫn phải ra ngoài thực tập nhiều hơn các binh sở. Ngược lại, các khóa sinh bộ binh, dù là bộ binh nhẹ hay trọng pháo, học tập cực hơn trước và phải thay phiên đi đóng đồn tại cao nguyên (plateau), một căn cứ gần trường; thêm vào đó, anh em bộ binh phải phụ trách việc chào kính, một công tác thường nhật.

Nhân nói đến vụ chào kính, anh Đào Văn Sơn có kể một câu chuyện về EOR Nguyễn Khoa Nam: “Mỗi ngày vào buổi sáng, nhà trường gởi một toán 7 người lên cư xá sĩ quan để dàn chào Thiếu Tá Bouillet, vị Chỉ Huy Trưởng của trường. Đến phiên Trung Đội 16, anh Nam được lệnh làm chỉ huy toán dàn chào vì anh tốt tướng, vạm vỡ đô con hơn cả. Với tính kỹ lưỡng sẵn có, anh chuẩn bị rất chu đáo, kiểm soát cẩn thận quân phục, giầy, súng, nhất nhất món nào cũng láng coóng. Thiếu Tá Bouillet xuất hiện, anh trình diện toán rồi bước về đứng đầu hàng đợi Thiếu Tá Bouillet duyệt toán quân. Duyệt quân đến chỗ anh Nam, ổng nhìn từ đầu xuống chân, rồi bất ngờ cúi xuống, buộc lại dây giày cho anh Nam vì khi di chuyển về chỗ đầu hàng, dây giầy một bên tuột ra mà anh không dám dừng chân để cột lại. Ngay sau đó, ổng cho anh em một bài giảng về quân kỷ. Ông nói cấp chỉ huy phải làm gương, cấp chỉ huy có kỷ luật thì binh sĩ mới có kỷ luật và quân đội mới trở nên một quân đội có kỷ luật.” Chuyện này chứng tỏ là các sĩ quan cán bộ trong trường rất lưu tâm đến những chi tiết nhỏ nhặt, muốn những sĩ quan mà họ đào tạo ra phải trở thành mẫu mực trong quân đội mới thành lập, theo đúng truyền thống lâu đời của quân đội Pháp.

Các sĩ quan Việt cũng hắc không kém, trung đội khóa sinh nào di chuyển mà hàng ngũ lộn xộn một chút, không may gặp sĩ quan cán bộ dọc đường là bị rầy rà, la mắng hoặc bị phạt chạy vài chục vòng quanh vũ-đình-trường. Ngày gay go nhất là ngày đi phép, sĩ quan phụ trách xuống khám phòng, chàng nào giường tủ, áo quần lôi thôi là mất phép, ráng ở lại trường, trong khi đồng đội du hí Sài Thành dui dẻ. Khóa sinh xưa nay đa số là các công tử, nay bị khép vào kỷ luật nhà binh nên nhiều anh em tìm mọi cách để vi phạm trường quy mà vẫn tránh được hình phạt. Nổi tiếng nhất là một khóa sinh cựu quận trưởng hành chánh, ngày nào cũng xé rào, trốn ra ngoài trại mà không khi nào bị chộp bị bắt. Anh trốn trại mỗi ngày vì có nợ với nàng tiên nâu, nghiện á phiện nên phải ra chợ Thủ Đức làm ít cối. Nhưng đại đa số khóa sinh đã thích ứng được với hoàn cảnh mới và thay đổi cách sống, dáng đi đứng, lối nói năng; từ những thư sinh tóc dài, ẻo lả nay đã trở nên những quân nhân nước da rám nắng, nét mặt rắn rỏi... Đúng như tập ngữ “ninety day wonder”, chỉ 90 ngày tận tình huấn luyện mà các sĩ quan trừ bị của Mỹ trong thời Thế Chiến đã trở thành những cấp chỉ huy tin cậy được. Phương pháp đào tạo của Pháp có tính cách chuyên nghiệp, chú trọng vào hình thức và kỹ năng, không vận dụng tinh thần, không lưu ý đến chiến tranh tâm lý trong một cuộc chiến đậm mùi ý-thức-hệ, đó là một khuyết điểm đáng kể trong chương trình học.

Như nói ở trên, Khóa 3 Trừ Bị Thủ Đức còn dùng chuyển ngữ Pháp Văn, nhiều khóa sinh non tuổi học chương trình Việt nên yếu tiếng Pháp, không hiểu rõ bài giảng và các chỉ thị của huấn-luyện-viên, nhất là trong những lớp chuyên môn như truyền tin, địa hình, kỹ thuật, xe hơi, vũ khí, v.v. Điều này đôi khi đã đưa đến hậu quả đáng tiếc như vụ một sinh viên sĩ quan đã tự vẫn bằng súng trường. Có lời đồn đại trong nhóm khóa sinh là chỉ vì trở ngại sinh ngữ, điểm thấp, anh sợ bị rớt nên mới có hành động dại dột gây nên thảm kịch đó. Dù sao, biến cố này cũng gây một chấn động lớn lao cho toàn thể khóa sinh lẫn sĩ quan huấn-luyện-viên.

Nói đến Khóa 3 mà không kể những chuyện vui buồn của câu-lạc-bộ (foyer) thì quả là thiếu sót. Foyer là một căn nhà rộng lớn, do nhà thầu Pierre Villaréal quản trị mà anh em thường gọi là “anh De”. Câu-lạc-bộ bán đủ thứ, rất đông khách, nhất là sau các kỳ lãnh lương (paye), anh em khóa sinh rủng rỉnh tiền bạc, la ve uống bí tỉ, nhậu nhẹt giải trí và bổ dưỡng để lấy sức học tập. Trong đám nhân viên bán hàng có cô cháu gái của anh quản lý trẻ đẹp, dễ thương khiến nhiều bạn trong khóa trồng cây si. Một EOR còn độc thân đã kiên nhẫn đeo đuổi, nhất quyết chiếm cho được trái tim người đẹp. Giờ nào không có lớp là anh lên chầu chực, quên cả học bài, ôn bài, kết quả là anh đã rớt trong kỳ thi tốt nghiệp, ra trường với lon chuẩn úy. Câu-lạc-bộ là nơi gặp gỡ của các cặp vợ chồng, tình nhân trong những ngày cuối tuần không được đi phép (nên nhớ hai tuần mới được đi phép một lần), nhiều màn mùi mẫn công khai xảy ra trước mắt bá quan và bạn bè làm nhiều người bạn cũng nóng mặt.

Điều mà các khóa sinh e ngại nhất là vụ chọn đơn vị khi tốt nghiệp, mệnh danh là amphigarnison mà thứ tự chọn lựa dựa vào kết quả trong kỳ thi ra trường, ai điểm cao thì chọn trước, dĩ nhiên là được chỗ tốt, gần gia đình, ít cực nhọc nguy hiểm. Vì vậy các anh em khóa sinh cố gắng dùi mài, học ngày học đêm, cố lấy điểm ngõ hầu đậu cao, chọn được chỗ ngon lành hơn... Vốn là dân bị động viên, rất ít người có chủ định suốt đời theo binh nghiệp, đa số chỉ mong thi hành đủ vài năm quân ngũ rồi trở về với công việc cũ của mình.

Trong một bữa tiệc nhắm mục đích cho khóa sinh làm quen với gia đình của sĩ quan cán bộ, một sinh viên sĩ quan đã nêu lên vài thắc mắc với phu nhân của một trung úy trung đội trưởng người Pháp như: “Trong quân đội Pháp, có nhiều sĩ quan gốc động viên tiếp tục phục vụ trong quân ngũ không? Có nhiều sĩ quan trừ bị sang hiện dịch không?” Bà cho biết là theo kinh nghiệm, số sĩ quan bị động viên có khá nhiều người chọn đời binh nghiệp, ngay ở trong Quân Lực Diện Địa Viễn Đông (FTEO, Forces Terrestres d'Extrême Orient), sĩ quan trừ bị cũng rất đông. Bà giải thích lý do là đời sống quân ngũ tuy cực nhọc, nguy hiểm nhưng thỏa mãn tinh thần, tạo nên ý nghĩa cho cuộc sống. Bà dùng câu tục ngữ “l' appétit vient en mangeant,” có ăn rồi mới thèm ăn; nói cách khác là khóa sinh ra trường chỉ huy binh sĩ, rồi cảm thấy thích thú đời quân ngũ từ đó phát sinh ý muốn tiếp tục phục vụ quân đội. Bà còn nói trong tập thể khóa sinh có những nhân tài, những kho tàng ẩn dấu (tresors cachés) sẽ sáng chói khi có cơ hội. Lời tiên đoán của bà đã đúng với một số đông sĩ quan tốt nghiệp Khóa 3, trong đó nổi trội nhất là EOR Nguyễn Khoa Nam.

Theo truyền thống ở các trường quân sự Pháp Quốc, các sinh viên sĩ quan tốt nghiệp với điểm cao thường chọn ngành chiến đấu tiền phong như Thiết Giáp, Nhảy Dù vì Thiết Giáp Binh nối nghiệp Kỵ Binh, một binh chủng quý tộc (arme noble), còn Nhảy Dù thì nổi tiếng trong Thế Chiến 2 là thần tốc, quyết định thắng bại tại chiến trường nên sĩ quan ưu tú là phải mang mũ nồi đỏ (bérêt rouge). Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức có huấn luyện sĩ quan Thiết Giáp trong một trung đội với khóa sinh đã lựa chọn ngay khi nhập trường, chỉ có Nhảy Dù là binh chủng chọn những sĩ quan tình nguyện sau khi mãn khóa. Trong hơn 700 khóa sinh Khóa 3 Trừ Bị Thủ Đức tốt nghiệp, chỉ có 6 người xin vào binh chủng Nhảy Dù đó là các EOR Nguyễn Khoa Nam, Hoàng Đức Ninh, Nhâm Ngọc Hựu, Bùi Văn Thạch, Nguyễn Thế Phồn, Trần Huy Chương.

Anh em đồng khóa thán phục sự can đảm, óc mạo hiểm của các bạn đó nhưng cũng hơi thắc mắc là các bạn đó lại chọn con đường khó khăn nguy hiểm như vậy vì lý do gì: thích phiêu lưu? mong thăng chức mau? ưa cảm giác mạnh hay là “bốc đồng”? Có điều chắc chắn là các sĩ quan cán bộ, đặc biệt là những sĩ quan Pháp, rất lấy làm hãnh diện thấy kết quả của việc huấn luyện của mình đã biến những bạch diện thư sinh thành những chiến sĩ hào hùng và tạo được những con người mới đầy đủ khả năng chỉ huy, không nề nguy hiểm. Nếu không có 6 EOR “dám nhảy từ trên Trời xuống” tình nguyện sang Nhảy Dù thì cả khóa đã bị coi là thỏ đế, nhát nhúa và đó là một điều làm tổn thương danh dự của cả khóa không ít. Do đó, anh em đồng khóa rất hãnh diện khi có những người bạn đã xung phong gia nhập Nhảy Dù, một binh chủng chiến đấu luôn luôn đi đầu và chịu lãnh nhiều tổn thất nhất trong quân đội.

Sau bốn tháng huấn luyện chuyên ngành, anh em được chuẩn bị để thi ra trường. Lúc này là giai đoạn căng thẳng nhất vì cuộc thi sẽ định đoạt tương lai mỗi người. Doanh trại sáng rực ánh đèn cầy ngay khi đèn điện tắt, một số lớn khóa sinh tiếp tục ôn bài, xem lại các notes đã ghi chép, tụng những bài bản quan trọng, hỏi nhau những điểm khó hiểu, dợt cách trả lời những câu hỏi tự đặt cho mình. Ai cũng lo không biết những môn thi thực hành có hệ số cao sẽ ra sao? Giám khảo có hắc búa không?

Một Hội Đồng Chấm Thi từ Sài Gòn lên, chánh-chủ-khảo là Đại Tá Phạm Văn Cảm, thành viên đa số là sĩ quan Pháp lấy từ các bộ Tham Mưu, các Trung Tâm Huấn Luyện, các đơn vị lớn, các sĩ quan này chấm những môn quan trọng, một số nhỏ sĩ quan Việt Nam đảm trách chấm những môn còn lại. Cuộc thi kéo dài trong nhiều ngày, trong suốt thời gian thi, không những tinh thần khóa sinh rất căng thẳng, ngay đến các sĩ quan trung đội trưởng và đại đội trưởng cũng lo âu không kém. Họ theo dõi từng môn thi, động viên tinh thần, khích lệ, mách nước cho các khóa sinh, đặc biệt là các khóa sinh học kém. Các huấn-luyện-viên rỉ tai, chỉ vẽ những ngón hay trong ngành nghề ngõ hầu các thí sinh có cơ may qua cầu thoát nạn khi gặp những giám khảo khó tính hoặc thích hỏi những câu ngoắt ngoéo, khó hiểu. Thiếu Tá Bouillet, Chỉ Huy Trưởng của Trường, đi vòng vòng quan sát đám đệ tử xem họ bị quay tơi bời đến mức nào, đánh giá công trình huấn luyện của trường. Ông có vẻ hài lòng khi thấy phần lớn khóa sinh trả lời trót lọt. Thật vậy, kết quả cuộc thi cho thấy chỉ có một số ít ra chuẩn úy vì thiếu điểm còn đa số đậu và ra trường với cấp bậc thiếu úy.

Trong Lễ Mãn Khóa, một cuộc diễn hành để biểu dương lực lượng của toàn khóa được tổ chức tại Sài Gòn, với hình thức quân trường của Quân Đội Quốc Gia Việt Nam. Tiểu đoàn khóa sinh được chỉ huy toàn bộ bởi sĩ quan Việt Nam, đi diễn hành dọc theo đường Norodom. Dân chúng đi coi duyệt binh khá đông, dĩ nhiên trong đám đông ấy có nhiều thân nhân của các tân sĩ quan. Lễ xướng danh thì thực hiện tại vũ-đình-trường, anh em khóa sinh hồi hộp chờ gọi tên, theo thứ tự điểm thi mãn khóa, suốt mấy ngày trước tin đồn là thủ khoa và mấy chỗ đầu đều do khóa sinh 5ème Division chiếm vì họ giỏi về chuyên môn mà hệ số các môn này lại cao, giám khảo cho điểm rộng. Tin đồn gần trúng vì Thủ Khoa Phạm Văn Mân là dân Pháo Binh, binh chủng có tiếng là bác học (arme savante) vì sĩ quan pháo thủ phải giỏi toán để tính những số liệu tác xạ. Anh Mân lại có dáng dấp bệ vệ, xứng đáng đi đầu hàng quân. Anh đậu Á Khoa thuộc Công Binh tên Lê Minh Chúc. Chiếm hạng ba là một anh Kỵ Binh Thiết Giáp, Nguyễn Thành Luông, thường gọi là Commis Luông vì ngạch của anh trong công chức là tham sự. Xướng danh hơn bảy trăm sĩ quan tốt nghiệp cũng mất nhiều tiếng đồng hồ.

Sôi nổi nhất là buổi chọn nơi phục vụ amphigarnison. Dù gì đi nữa, nhiều sĩ quan trừ bị không có tinh thần như những sĩ quan hiện dịch tình nguyện, họ không mấy thích mạo hiểm, ngại xông pha chiến trận nên ai mà chẳng muốn được bổ nhiệm vào một đơn vị đồn trú gần gia đình, tránh né các địa phương kém an ninh. Vì những lẽ đó, sĩ quan tân khoa ưu tiên chọn Đệ Nhất Quân Khu ở miền Nam và chỉ có các anh gốc Bắc hoặc xếp hạng thấp trong kỳ thi ra trường là chọn Đệ Tam Quân Khu thôi. Sau khi chọn nơi phục vụ, có những vụ đổi chác: anh đã chọn miền Nam đổi chỗ cho anh chọn miền Trung vì muốn ở gần vợ con, hoặc là anh phải ra miền Bắc vì xếp hạng thấp, không còn chỗ trong Nam, mà gia đình lại ở Lục Tỉnh nên phải năn nỉ với một anh chọn chỗ trong Nam xin hoán đổi về Đệ Nhất Quân Khu. Văn phòng nhân viên tỏ ra dễ dãi và thông cảm cho các vụ hoán đổi.

Các tân sĩ quan được phân phối đi dự các dạ tiệc tại dinh thủ tướng, ở các bộ phủ, khi qua trạm gác, được binh sĩ chào đúng quân cách. Có anh hỏi đường thì lính gác một điều thưa quan, hai điều thưa quan, nghe hơi có vẻ phong kiến nhưng trong lòng “các quan” cũng thích thầm, nghĩ rằng công dùi mài kinh sử, đi bãi tập luyện cực khổ, nay đang được đền bù: đã thành quan, dù chỉ là chức quan nhỏ.

Mãn khóa xong, anh em nóng lòng chờ giấy phép để về với gia đình, nhất là các anh động viên từ Bắc và Trung. Suốt nửa năm xa vợ con, xa nhà, ai không nôn nóng, mong ngày phép. Những ngày sum họp với gia đình là những ngày quý báu, nhưng qua rất mau, và viễn ảnh cuộc chiến ngày càng khốc liệt là một mối lo cho nhiều anh em, nhất là khi quân đội Pháp nhảy dù xuống Điện Biên Phủ và mở nhiều chiến dịch ở mạn Nam đồng bằng sông Hồng. Các anh chọn Quân Khu 3 ngoài Bắc, vừa hết phép về trình diện là ra đơn vị và hành quân liên miên ngay. Quân Khu 1 và 2 tương đối yên hơn. Một số chọn ngành chuyên môn thì phục vụ tại các nha sở, đơn vị thuộc ngành của mình. Thiếu Úy Nguyễn Khoa Nam tình nguyện thuyên chuyển về một đơn vị Dù ngoài Bắc.

Sĩ quan khóa 3 Thủ Đức ra trường vào đúng lúc Quân Đội Quốc Gia Việt Nam tiếp thu các đơn vị của Pháp, nên nhiều anh em được gởi đi thụ huấn ở Pháp, lúc về được bổ nhiệm vào các chức vụ tương đối cao và được thăng cấp khá mau. Tổng quát mà nói, đa số sĩ quan tốt nghiệp Khóa 3 Thủ Đức đều làm nên sự nghiệp, nhờ có vốn liếng văn hóa hay chuyên môn, chịu trận mạc ngay từ khi còn “mỏ trắng” (blanc bec), lập nhiều công trạng chiến trường. Một anh nổi tiếng “anh hùng đồn Khả Lý-Bắc Việt” là Nguyễn Hoàng Chương. Sau ngày ký kết Hiệp Định Genève 1954 chia đôi đất nước, một thiểu số rất nhỏ kẹt lại miền Bắc mà phần lớn vì lý do gia đình, còn đa số di chuyển vào Nam. Một số nhỏ khác gốc công chức được giải ngũ sau hơn hai năm phục vụ quân đội. Không ít anh em chuyển sang hành chánh làm việc, anh Thủ Khoa Phạm Văn Mân, các anh Mai Ngọc Dược, Hoàng Đức Ninh, Cao Văn Chơn nhậm chức tỉnh trưởng. Vài anh xuất ngoại du học như các anh Nguyễn Sĩ Tín, Dương Thiệu Hiểu. Mấy đợt giải ngũ kế tiếp, một số anh có tài kinh doanh đã ra tung hoành nơi thương trường như các anh Lê Minh Triết, Huỳnh Trung Lập, Trần Văn Tuất, Lâm Tuấn Lâm. Ra chính trường thì ta thấy các anh Phạm Đỗ Thành, Lê Ninh, Nguyễn Thành Luông, Võ Văn Cầm. Giữ các chức vụ chuyên môn ở cấp cao có mấy anh Nguyễn Văn Ghi, Lê Liêm, Trần Văn Thăng. Ở ngành ngoại giao có anh Vũ Quốc Ngọc. Cơ quan chuyên môn có những Ngô Quí Thiều, Nguyễn Năng Nhu. Ngành Luật Sư có Huỳnh Quang Trung, Lê Tất Hào (lưỡng quốc luật sư Việt-Mỹ), Lý Quốc Sỉnh, Phạm Kim Vinh; anh Vinh còn là một cây bút sắt bén dưới bút hiệu Trương Tử Phòng. Những anh trước tác nhiều đáng kể là Duy Lam Nguyễn Kim Tuấn, Tạ Tỵ, Nguyễn Trọng Liệu, Nguyễn Hữu Trạc, Nguyễn Sỹ Tín, Đỗ Khắc Siêm, Vũ Công Định. Bác sĩ thì có Hoàng Ngọc Đính. Còn trong quân ngũ thì đa số chỉ huy các đơn vị quan trọng; đặc biệt các anh Nguyễn Khoa Nam, Huỳnh Văn Lạc là những sĩ quan khóa 3 mang sao, thăng tướng. Không ít dân khóa 3 đã là những Đại Tá đảm nhận những chức vụ cao: Cục Trưởng Bùi Hy Trọng, Chánh Án Tòa Mặt Trận Nguyễn Trọng Liệu, Ủy Viên Chính Phủ Nguyễn Đình Trí, Giám Đốc như Chu Văn sáng, Trưởng Phòng Bộ TTM Nguyễn Đức Đệ, Chỉ Huy Lực Lượng Đặc Biệt Ngô Thế Linh. Nhưng người được giao nhiệm vụ quan trọng nhất vẫn là anh Nguyễn Khoa Nam với chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn IV-Quân Khu 4, một trong 4 đại đơn vị và Vùng Chiến Thuật của Việt Nam Cộng Hòa. Những sĩ quan Khóa 3 Thủ Đức đã hy sinh vì tổ quốc cũng khá nhiều, tiếc rằng danh sách chính thức không có.

Tổng kết lại thành tích của sĩ quan Khóa 3 Thủ Đức, tôi thấy các sĩ quan Khóa 3 không thăng cấp cao và mau như các đàn anh trong khóa 1, một phần vì ra trường sau, một phần vì tuổi tác trung bình của anh em khóa 3 cao hơn. Thêm vào đó, sĩ quan xuất thân Khóa 3 gồm đa số thuộc thành phần công tư chức nhiều hơn sinh viên học sinh, có gia đình nhiều hơn độc thân, vì vậy thường giữ bản tính thích phục vụ tại các bộ tham mưu, nha sở, nên lâu lên lon và khó nổi trội tiếng tăm. Tuy vậy, sự đóng góp của các anh em không phải là nhỏ vì trong quân đội, công tác tham mưu cũng quan trọng không kém công tác chiến đấu. Có một điều chắc chắn là sau khi rời đồi Tăng Nhơn Phú, cuộc đời và tương lai của các anh em động viên vào Khóa 3 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức đã đổi thay rất nhiều: theo đuổi một sự nghiệp mới hoặc nhận những trách nhiệm nặng nề được giao phó. Nhiều người phải từ bỏ hẳn đời sống an toàn để “vào sinh ra tử” không những cho chính mình mà còn mang theo tính mạng của binh sĩ thuộc cấp. Nhiều người đã gác sang một bên những dự tính tương lai của thời dân sự mà tiếp tục phục vụ trong quân đội. Cũng có nhiều anh vẫn ở ngạch trừ bị đến ngày rã ngũ, nhưng một số anh trừ bị chuyển sang hiện dịch sau khi xuất ngoại tu nghiệp hoặc vì “l' appétit vient en mangeant.”

Gần nửa thế kỷ trôi qua, ngồi tính lại sổ đời, ta mới thấy ngày nhập ngũ là một khúc quẹo của cuộc sống, bước ngoặt của đường đời, là cơ hội khai triển các tài năng ẩn dấu, tận dụng nội lực tiềm tàng trong mỗi người. Khi mới nhận được lệnh động viên thì các anh em coi đó là một gánh nặng, một nghĩa vụ “muốn tránh cũng không được”, nhưng một khi sống quen đời quân ngũ rồi ta lại tự nhiên thích lối sinh hoạt tập thể, phiêu lưu nhưng kỷ luật, nhiều thử thách nhưng hưởng được các thành quả, những tưởng thưởng vật chất và tinh thần khó tìm thấy trong đời sống dân sự. Nhìn lại quá trình và thành tích của các thành phần trong Khóa 3 Thủ Đức, dù rằng, giờ đây, kẻ mất người còn, lưu lạc tản mác khắp nơi trên thế giới; dù rằng, có thể ý nguyện hay hoài bão của nhiều người chưa đạt đến nơi đến chốn, ta nhận thấy đại đa số sĩ quan xuất thân Khóa 3 đã tỏ ra “tận kỳ lực, đạt kỳ công” trong thời gian phục vụ quê hương dân tộc.


Đức Nguyên (Nguyễn Đức Đệ)

Năm ấy, tôi đang làm việc tại thị xã Huế thì bị động viên nhập ngũ vào khóa 3 sĩ quan trừ bị Thủ Đức. Lệnh gọi được tính từ ngày 1.4.1953. Trước đó tôi là công chức tại Tòa Ủy Viên Cộng Hòa Pháp. Nhưng sau khi thi đậu tham sự hành chánh của Pháp, vì bảng cấp số của Tòa Ủy Viên Cộng Hòa chỉ có hai tham sự, các anh Tham Hà Văn Công và Bửu Hương, tôi là người thứ ba nên phải thuyên chuyển đi nơi khác. De Redon, viên đổng lý sự vụ tại tòa Ủy Viên Cộng Hòa muốn giữ tôi lại giúp việc cho Pháp, nên hỏi ý kiến tôi có muốn vào Sài Gòn làm ở Phủ Cao Ủy Pháp hay không? Tôi từ chối, vì mới cưới vợ và sinh được đứa con trai đầu lòng, tôi không muốn xa Huế, nơi có gia đình nhà vợ để nương tựa.

Sài Gòn quá xa xôi, tôi không quen biết ai, làm sao sống? Gia đình bên tôi còn kẹt ở Quảng Ngãi, vùng cộng sản tạm chiếm. Do đó tôi chấp nhận phải chuyển sang các cơ quan của chính phủ Việt Nam để được ở lại Huế. Mới làm việc ở Thị xã Huế có ba tháng đúng, tôi đã có lệnh gọi nhập ngũ. Đúng là cái số phải xa gia đình. Khi tới chào từ biệt, ông tỉnh trưởng Thừa Thiên Nguyễn Đôn Duyến cũng ngõ ý tiếc tôi, một viên chức của Pháp siêng năng, cần cù, có óc cầu tiến.

Nhà tôi ở gần nhà anh Phạm Đình Chi trên đường Phạm Hồng Thái (Verdun cũ), anh Chi cũng là một viên chức của Tòa Ủy Viên Cộng Hòa Pháp Huế, và cũng nhận được lệnh động viên nhập ngũ khóa 3 Sĩ quan Trừ Bị Thủ Đức như tôi. Chúng tôi hẹn nhau đi trình diện một ngày cho có bạn. Sáng hôm ấy, tôi từ giã vợ tôi và đứa con trai đầu lòng sinh cuối năm 1952. Việc gia đình từ nay do vợ tôi lo liệu, nàng mới mười chín tuổi, với một chị người làm ở nhà quê đưa vào. Có lẽ sau khi tôi đi, vợ tôi sẽ thu xếp trả căn nhà thuê này về tá túc với gia đình nhà vợ ở đường Đào Duy Từ, từ cầu Đông Ba đi xuống nữa, một quãng xa. Anh Chi cũng từ giã vợ và ba con, hai bé gái và một trai, thằng Cu con anh cũng bằng tuổi với thằng Cu con tôi.

Chúng tôi leo lên hai chiếc xích lô đạp, mặc sơ mi trần dài tay, chiếc va li da để dưới chân, gồm hành trang đem theo, lệnh nhập ngũ trong túi áo. Hai chiếc xích lô đạp chạy song song, suốt đường Phạm Hồng Thái, ra tận mé sông Hương, rẽ tay trái theo đường Jules Ferry, lên cầu Trường Tiền, đi vào thành nội, và đến trại Duyệt Thị, nơi tạm trú của các sinh viên sĩ quan trừ bị khóa 3, trình diện nhập ngũ. Tại đây tôi gặp, ngoài anh Lê Văn Đệ, công chức của tòa tỉnh như tôi, một số viên chức hành chánh của các cơ quan khác, các giáo viên tiểu học ở Huế… mà tôi chưa quen biết ngoài đời. Khá đông người đã đến trại tạm trú, khoảng ba bốn chục anh. Thuộc lớp tuổi trên dưới ba mươi, thành phần viên chức và giáo viên nhiều nhất.

Các sinh viên học sinh trẻ ít bị gọi nhập ngũ kỳ này, vì kinh nghiệm với khóa 2 Thủ Đức, có một số khóa sinh chống đối lệnh nhập ngũ, đã đánh lại các sĩ quan và hạ sĩ quan huấn luyện người Pháp, mấy sinh viên sĩ quan khóa ấy bị ra binh nhì, đưa đi tác chiến. Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa ngày ấy mới thành lập, cần có nhiều sĩ quan tốt để chỉ huy, nên hầu như vơ vét gần hết các thành phần công chức trẻ, đã có hay chưa có gia đình, vì cho đó là những phần tử tốt, cuộc sống ổn định, biết tôn trọng kỷ luật quân đội, chứ không nhiều thanh niên tính như sinh viên học sinh, là thành phần của các khóa trước, đã đưa lại kết quả không tốt đẹp như trên. Với lứa tuổi ba mươi, quân trường dễ nắm các sinh viên hơn về mặt quân kỷ, và hy vọng sẽ đào tạo được nhiều sĩ quan tốt cho quân đội, có đức tính chỉ huy và tinh thần kỷ luật cao.

Đội ngũ sinh viên sĩ quan khóa 3 chúng tôi gồm nhiều người đã “tam thập nhị lập”, có học thức khá, được đào tạo qua nhiều năm công chức Pháp và Việt, nên rất đều đặn, sau này ra trường đặt đâu cũng có thể làm việc được, có hiệu năng. Đêm đầu tiên xa gia đình, nhớ nhà quá. Tạm ổn định cuộc sống tập thể, thu xếp chỗ ăn chỗ nằm, giờ giấc. Chiều chiều, trước khi bóng ngã về đêm, một số chúng tôi lang thang leo lên bờ thành nội, nhìn về phía hữu ngạn sông Hương, nơi đang có gia đình tôi ở đó, mịt mù sau màn sương lam cho đỡ nhớ. Trước khi trở về lại trại Duyệt Thị, chờ điểm danh và đi nằm, nói chuyện râm rang với những người bên cạnh, ngủ trên những chiếc giường bố của quân đội. Khá thân với anh Lê Văn Đệ, vì cùng làm việc với nhau tại tỉnh đường, Đệ lớn hơn tôi một tuổi, người đứng đắn, đằm thắm, nên tôi thích nằm cạnh anh, và nghĩ rằng khi vào đến Thủ Đức nếu có thể được sẽ cùng sống chung với nhau đồng đội, đồng phòng.

Mấy hôm sau, được Trại Nhập Ngũ cho về thăm hai hôm, tôi thuê xe xích lô bay về nhà để gặp vợ con. Vợ tôi mừng quá, bé Dũng, con trai tôi, mới lên tám tháng, đang ngủ yên giấc trong chiếc nôi buông màn tuyn xanh. Hai ngày đầm ấm rồi lại ra đi. Tôi nhân dịp, đến nha sĩ nhổ chiếc răng cấm hàm dưới, bị sâu răng lâu ngày, chỉ còn vành mỏng, nhưng lâu lâu vẫn nhức nhối. Tôi muốn có sức khỏe đầy đủ để chịu đựng mấy tháng ở quân trường. Buổi tiệc trà tiễn đưa chúng tôi được tổ chức tại một phòng rộng Trại Duyệt Thị, có Đại tá Trương Văn Xương, tư lệnh Quân Khu 2 chủ tọa, và sự tham dự của một số sĩ quan khóa đàn anh, động viên chúng tôi rất nhiều. Xếp bút nghiêng! Cuộc sống của tôi từ nay gắn liền với đời quân ngũ, nhưng tôi chưa hình dung được rõ ràng là sẽ ra sao? Đời sống quân trường vất vả thế nào, nhất là đối với tôi, sức khỏe không được dồi dào, đi vào quân đội lúc vừa tròn ba mươi tuổi.

Rời thành phố Huế một buổi sáng trời trong bằng những chiếc quân xa GMC chở chúng tôi từ Duyệt Thị lên ga xe lửa. Khi đi ngang qua tòa tỉnh Thừa Thiên, lòng tôi buồn man mác. Nghĩ là mới tháng trước đây tôi còn là một công chức trẻ, đạp chiếc xe đạp mới, đi làm việc và về ngày hai buổi. Tối đến tôi đọc sách, nói chuyện với vợ, đùa giỡn với con, cứ tưởng cuộc đời công chức sẽ là cuộc đời của mình cho đến ngày tàn xế bóng. Nhưng lệnh nhập ngũ đã thay đổi hoàn toàn nếp sống. Giờ này, những người bạn công chức lớn tuổi hơn tôi vẫn đang ngồi làm việc sau chiếc bàn giấy của họ, đầy hồ sơ vụ việc, nào thuế má, đấu thầu, điạ ốc, các nhà hàng, quán ăn, chợ Đông Ba… của một thị xã Huế đang phát triển.

Còn tôi thì đang trên đường nhập ngũ, chưa biết tương lai ra sao. Tiếng súng đại bác vẫn nổ rền mỗi buổi sáng từ những đồn pháo binh bắn yểm trợ các đơn vị bạn, vọng lại ở xa xa. Cuộc đời của tôi từ nay được liên hệ mật thiết với những người bạn đồng hành ngồi trước mắt trong chuyến xe GMC, và chốc nữa đây trên xe lửa thẳng tiến vào Nam. Một niềm vui nho nhỏ và hy vọng nhen nhúm lên trong lòng tôi khi nghĩ rằng chúng tôi sẽ có thể tham gia vào việc bảo vệ đất nước. Tôi cũng hãnh diện được đóng góp một phần nhỏ nhoi. Cuộc đời quân ngũ sắp đến chắc chắn sẽ có nhiều ý nghĩa hơn cuộc đời công chức hiện tại bình thường. Với những ý nghĩ đó tôi đã nguôi bớt nỗi nhớ nhà khi đoàn tàu xa dần miền sông Hương, núi Ngự vào đến ga Lăng Cô, Cầu Hai, để sửa soạn chui vào bảy chiếc hầm ở dãy núi Hải Vân, bắt đầu bằng hai hầm dài nhất, hầm Sen, hầm Súng.

Đang ngồi nói chuyện với các bạn sinh viên sĩ quan khác trong toa tàu, lúc đoàn xe lửa chạy ngang từ đèo Hải Vân, bỗng một loạt súng AK nổ rang từ phía chân đèo. Phản ứng nhanh, chúng tôi nằm rạp xuống các băng trong toa tàu, tránh xa các khung cửa sổ tàu rộng lớn. Trong lòng rất hồi hộp. Một loạt súng khác, rồi một loạt khác nữa. Nhưng hình như từ hai chiếc toa bọc kẽm ở đầu và cuối đoàn xe bắn ra để bảo vệ hành khách. Nhất là có chúng tôi là những tài nguyên quốc gia mà Việt cộng muốn sát hại. Tiếng súng của đối phương im bặt. Đoàn tàu vẫn từ từ tiến vào miệng hầm, bình an. Một người trong chúng tôi vui mừng thốt lên trong bóng tối đen kịt của chiếc hầm: – “Đúng là một lễ “baptêm de feu”, phải không các bạn?”. Ai nấy đều cười đồng ý.

Được vài ngày nghỉ chân tại thành phố Đà Nẵng, đoàn sinh viên sĩ quan miền Trung chúng tôi tổ chức đi thăm Ngũ Hành Sơn, một danh lam thắng cảnh của tỉnh Quảng Nam. Lần bước đi trong các hang động Ngũ Hành đầy bóng tối mát rợi, có những dòng thạch nhũ như rơi từ trời cao và đông đặc, trông tuyệt đẹp. Những tảng đá cổ thạch khổng lồ có vẻ muốn đổ xuống đầu người. Một chiếc vú đá trong một hốc đá nhỏ không còn chảy nước. Tương truyền ngày xưa có một vị hoàng tử triều đình đã tinh nghịch sờ vào chiếc vú đá, nên từ ấy dòng nước ngọt đã khô, thật đáng tiếc. Một buổi tiệc diễn hành được tổ chức tại Tòa Thị Sảnh, và chiều hôm sau, đích thân ông Lê Tá, thị trưởng thành phố Đà Nẵng đã tiễn đưa chúng tôi đến tận bến phà của cảng Đà Nẵng, trong điệu nhạc quân hành.

Chúng tôi nối đuôi nhau, tay xách vali, túi xách, làm thành một đoàn dài, dần tiến xuống hầm tàu đang mở rộng như chờ đón. Chiếc tàu Gascogne của Pháp là phương tiện chuyển vận của chúng tôi bằng đường biển vào Nam. Mỗi sinh viên sĩ quan được phân phối cho một chỗ nằm chật hẹp trong hầm tàu. Khi nằm ngửa, nhìn lên trần hầm chỉ cách mặt tôi khoảng nửa mét, có vài lỗ thông hơi nhỏ, không khí lùa vào đỡ ngột và mang lại gió mát của đại dương. Được chạm khắc ngay ở trần hầm là những dòng chữ: “Kỷ niệm ngày bị đày vào Côn Đảo, 192…”, trên chỗ nằm nào cũng có câu này. Trời! Người ta nhốt chúng tôi vào tầng hầm mà mấy chục năm xưa, Pháp chở những tù chính trị bị đày đi Côn Đảo.

Họ xem chúng tôi như những kẻ tù đày chăng? Nghe nói khóa 1, các anh động viên ở Nam Định vào bằng đường biển, Pháp cho họ ở tầng trên, và có thể vào câu lạc bộ sĩ quan để giải khát, đọc báo, đúng tư cách một sinh viên sĩ quan. Có lẽ sau vụ khóa 2, nên tụi Pháp sợ chăng? Mấy ngày sống trên tàu thủy, chúng tôi cắt phiên nhau mỗi lần mấy người đi lãnh cơm và thức ăn, nước uống, có tráng miệng dưa hấu đỏ. Gà mèn đựng cơm và thức ăn, ca uống nước được lãnh trước. Không có muỗng, nĩa, đũa. Tôi quên đem những thứ đó, nên hôm đầu tiên phải dùng cái chausse-pied mới để làm muỗng đưa cơm. Hôm sau, được nhà bếp cho mượn muỗng, nĩa. Họchỉ cho chúng tôi mỗi ngày lên boong tàu một lần để hứng gió mát và tắm nắng, vào buổi sáng hoặc buổi chiều. Lần đầu tiên tôi đi đường biển, tuy biết là gần bờ biển miền Nam, nhưng xa tít mù khơi, không nhìn thấy được. Thỉnh thoảng được nhìn thấy một chiếc tàu buôn lớn, hoặc một chiến hạm, xã khói lướt nhanh ngoài khơi. Một vài chú cá voi nổi lên mặt biển, phun nước, như để chào mừng chúng tôi.

Ba ngày hai đêm trên mặt biển rồi cũng sắp qua thôi. Tàu Gascogne tiến dần vào bờ biển Nam Bộ, trước ngày lên bờ một hôm, một sự kiện xảy ra, đã gây bất mãn cho tất cả chúng tôi, trước hành động của bộ chỉ huy tàu. Vì sau hai ngày đi đường, với những bữa ăn, sinh hoạt tập thể của đội ngũ. Đáng lẽ công việc làm sạch sẽ nơi này phải do những lao công của nhà bếp. Nhưng họ lại bắt chúng tôi phải quét dọn lau rửa, khu này trước khi lên bờ. Bị chúng tôi cự nự, viên quản bếp gây gổ: “Các anh phải làm sạch sẽ mới được đi. Trước khi trở thành sĩ quan, các anh phải là người lính đã”. Đành rằng việc làm sạch sẽ khu hầm tàu này không khó khăn đối với tuổi trẻ của chúng tôi lúc bấy giờ, và sau này vào quân trường chúng tôi còn phải lao động, thao dượt đổ nhiều mồ hôi, nhưng việc đối xử kém văn hóa của bộ tham mưu người Pháp tàu Gascogne từ mấy hôm nay đã dấy lên sự công phẫn trong hàng ngũ chúng tôi, Chúng tôi cương quyết từ chối. Vì uy tín của quân đội, vì danh dự của người Việt Nam. Thấy không lay chuyển được, bọn họ ra lệnh cấm chúng tôi lên boong tàu hứng mát như mọi ngày. Mặc kệ, chúng tôi quyết định làm reo. Muốn ra sao thì ra.

Cuối cùng hai sĩ quan Việt Nam, người lớn cấp nhất là trung úy, những hướng dẫn viên của chúng tôi từ Huế vào Nam, phải đứng ra dàn xếp, ban chỉ huy tàu mới đồng ý cho chúng tôi lên boong, và xếp việc làm sạch sẽ hầm tàu. Chúng tôi thắng được bước đầu. “Uy vũ bất năng khuất”. Sáng hôm sau, khoảng mười giờ, chiếc tàu Gascogne từ từ tiến vào Vũng Tàu và đi theo sông Lòng Tảo, hai bên mọc toàn cây đước và dừa xanh để lên hướng cảng Sài Gòn. Thành phố Sài Gòn, thủ đô của miền Nam hiện ra xa xa trong nắng mai. Hòn ngọc Viễn Đông đẹp thật, nhất là đối với một người từ trước đến giờ chỉ biết có Huế và loanh quanh một vài thành phố nhỏ ở miền Trung. Có một lần tôi ra Hà Nội tu nghiệp ngành văn khố và thư viện sáu tháng, nhưng Hà Nội cổ kính với ba mươi sáu phố phường chật hẹp quá. Đứng trên boong tàu, tôi nhìn về phía Sài Gòn. Nhiều cao ốc lộng lẫy dựng sừng sững nơi đường chân trời, chói chang dưới nắng mai.

Tôi không biết đâu vào đâu cả. Lòng tôi bồi hồi xúc động trước cảnh vật đổi thay. Mới đầu tuần còn ở Huế, nay đã vào đến miền Nam xa lạ – ở Sài Gòn tôi không quen biết ai cả, trừ Phiên và Đạt, là những người bạn công chức cũ của tôi tại Tòa Ủy Viên Cộng Hòa Pháp. Phiên đã vào Sài Gòn được bốn năm nay và mới thi đậu tham sự một lần với tôi. Phiên đậu thủ khoa tham sự ấy, và hiện nay làm Phủ Cao Ủy Pháp. Gia đình Phiên ở đường Vassoigne (sau này là Trần Văn Thạch), vùng Tân Định. Đạt làm thư ký đánh máy, cũng được đổi vào Nam trước Phiên. Đó là hai địa chỉ bạn khá thân quen mà tôi có thể đến chơi sau này, khi nào cuối tuần, được phép về Sài Gòn nghỉ. Giờ thì nỗi nhớ nhà đang dâng lên trong lòng tôi.

Làm sao vợ tôi sinh sống khi tôi bị động viên nhập ngũ. Liệu tòa Tỉnh Thừa Thiên, cơ quan cuối cùng tôi phục vụ có trả lương sai biệt cho vợ tôi ở Huế không? Không muốn đổi vào Sài Gòn làm việc thì nay cũng phải vào Sài Gòn đi lính. Miên man suy nghĩ, tàu cập bến lúc nào không hay. Một đoàn quân xa mấy chiếc đến đón chúng tôi tại Bến Bạch Đằng. Các sinh viên sĩ quan mang hành lý xuống tàu. Mệt mỏi sau một cuộc hành trình dài trên biển. Nghe nói các anh ở miền Bắc cũng đã lên tàu thủy đi từ cảng Hải Phòng để vào Nam. Ban đón tiếp leo lên các chiếc xe Jeep chạy đầu, hướng dẫn chúng tôi về một nơi nào đó để nghỉ ngơi và ăn trưa. Tôi không rõ chỗ nào, chỉ biết đó là một quán ăn bên đường, đầy cây cao bóng mát. Sau này nhớ lại, có lẽ là khu vực Hàng Xanh.

3-
Chiều hôm ấy, đoàn quân xa lại chở chúng tôi đến quân trường Thủ Đức, nằm trên đồi Tăng Nhơn Phú, sau khi chạy ngoằn ngoèo, theo một con đường nhỏ hẹp, rồi đến một đoạn thẳng tắp, có cột pylone cao thế, dựng cao vút trên ngọn đồi thưa cây. Tấm biển lớn treo trước cổng bằng tiếng Pháp cho biết đó là Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức. Đoàn quân xa dừng lại tại một quảng trường rộng lớn, rải nhựa, phất phơ lá quốc kỳ Việt Nam trên ngọn. Xung quanh quảng trường, một bên là các ngôi nhà xây theo kiểu biệt thự – chắc nhà các sĩ quan cán bộ và gia đình. Còn bên kia sâu vào phía trong là những dãy nhà trệt vách trắng, mái ngói đã cũ, phủ rêu và một số lợp ngói đỏ tươi, chắc mới xây. Các sĩ quan cán bộ của quân trường ra tận sân cờ tiếp nhận chúng tôi. Sinh viên được xếp tạm vào từng đội ngũ khoảng ba chục người, được sĩ quan cán bộ hướng dẫn đưa về các dãy nhà trệt. Đó là trại sinh viên. Về đó để lãnh phần ăn chiều và tạm nghỉ qua đêm. Đêm đầu tiên tôi nằm ngủ trên một chiếc giường bố xếp nhà binh, song song với giường anh Lê Văn Đệ, mà tôi tưởng là được ở gần anh trong thời gian khóa học. Một giấc ngủ ngon lành sau những đêm mỏi mệt, ngộp thở ở hầm tàu.

Sáng hôm sau chúng tôi được lệnh đi lãnh quân trang quân phục. Nơi lãnh là một chiếc lều vải dài của nhà binh Pháp. Mỗi người được lãnh hai bộ quân phục tác chiến màu xanh cỏ, hai bộ quân phục ngắn gồm quần đùi áo sơ mi cụt tay, hai bộ kaki vàng dài tay, hai đôi giày trận da cứng ngắt, một đôi dày da đỏ thấp cổ. Rồi nào là mũ nồi, mũ sắt, mũ nhựa, mũ rộng vành, nịt da, tất lính, bi đông đựng nước, gà mèn, ca uống nước, vải lều xanh sac kaki vàng đeo vai, áo mưa lính cũng màu xanh, ngoài lớp vải trong lót cao su. Tất cả đều được cho vào một chiếc sac marin lớn, trừ bộ quân phục ngắn phải mặc ngay trước khi ra khỏi lều lãnh quân trang. Chiếc áo sơ mi trắng và quân dân sự được nhét vào túi vải mới lãnh. Một ý nghĩ ngộ nghĩnh nảy ra trong trí tôi: “khi bước vào lều còn là dân sự, khi ra khỏi lều đã là một quân nhân”. Toàn màu xanh cỏ, gọi là xanh cứt ngựa, toàn trại.

Tất cả sinh viên sáng nay lố nhố với màu sắc dân sự áo này quần nọ, bây giờ đều biến thành một màu xanh cỏ, màu xanh của lính. Xếp bút nghiêng từ đây – giã từ cuộc sống công chức, “sáng vác ô đi, tối vác về”. Sau đó chúng tôi lại lần lượt bước qua một lều vải khác để nhận lệnh phân phối về các binh chủng, ngành thụ huấn. Tôi mạnh dạn trong sự rụt rè, vén bức màn vải cửa chiếc lều nhỏ (tente murale) để vào trình diện ủy ban phân phối, khi có lệnh gọi và một anh bạn khác vào trước tôi vừa bước ra. Trước mặt tôi, một chiếc bàn giấy nhỏ, kê đối diện với cửa lều. Sau bàn giấy, một sĩ quan Pháp cấp đại úy, người to lớn, bệ vệ đang ngồi trên một chiếc ghế, ngước mặt nhìn tôi. Hai bên viên đại úy là hai sĩ quan người Pháp khác, cấp Trung úy. Tất cả đều nhìn tôi như để xem mặt bắt hình dong. Tôi cố trấn tĩnh, đưa cánh tay phải lên chào nghiêm túc, đồng thời chân phải đập mạnh vào gót giày bên trái nghe một tiếng đốp thật kêu.

Động tác này tôi đã được các sĩ quan cán bộ người Việt hướng dẫn cho các sinh viên sáng hôm nay. Miệng hô to bằng tiếng Pháp: “E.O.R. Nguyễn Đức… số quân… trình diện ủy ban”. Quyết định của Ủy ban chỉ trong giây phút. Họ đã xem kỷ hồ sơ tôi trước rồi. Nay chỉ còn phần trình diện với quân phục, tác phong bên ngoài. “5e Division, Artillery” (Đại Đội 5, Pháo Binh). Do miệng viên trung úy ngồi bên phải người chủ tịch thốt ra. Tôi nhớ thoáng một khuôn mặt quá dài như anh hề Fernandel với bộ râu mép, chiếc mũ nồi vàng, dải xanh đỏ của quân trường, cặp lon trung úy nỉ đỏ đeo ở cầu vai. Đôi mắt sáng quắt, mở to, mũi hếch lên như dò xét tâm hồn tôi. Sau này tôi mới biết đó là trung úy Ladonne, sĩ quan pháo binh, và là trung đội trưởng của chúng tôi.

Bước ra khỏi lều họp, tôi hỏi các bạn khác đứng quanh đấy vì tôi không rõ tôi được phân phối cho ngành nào. Là công chức, tôi đâu đã hiểu các thuật ngữ quân sự. Có tiếng trả lời: “Ồ ngành đó sướng lắm – Đứng sau bắn tới không hè! Không sợ chết”. Một anh khác thêm vào: “chỉ có học là vất vả thôi. Đi không thấy mặt gà, về nhà không thấy mặt chó” (Ý nói đi quá sớm, gà chưa ra chuồng, về quá trễ, chó đã di ngủ). Một số anh khác đi các ngành ABC (thiết giáp), Train ( quân vận), Transmission (truyền tin), Matériel (quân cụ). Đó là những binh chủng chuyên môn trong khóa 3 chúng tôi. Còn đại đa số sinh viên sĩ quan đều được phân phối theo ngành Bộ Binh (Infantry), trong đó có các anh Phạm Đình Chi, người bạn lối xóm, và Lê Văn Đệ, đồng nghiệp công chức toà tỉnh Thừa Thiên.

4-
Đeo ba lô lên vai, tôi theo các bạn cùng ngành về hai dãy trại mới làm, ngói còn đỏ tươi, xây ở cuối quân trường, dành cho sinh viên sĩ quan học các binh chủng chuyên môn. Ngành pháo binh chúng tôi được xử dụng hai căn phòng giữa, hai phòng bên cạnh là thiết giáp, một bên kia nữa là quân vận. Hai đầu, một bên là dãy nhà vệ sinh, bên kia là buồng tắm hoa sen. Trại kế cận thuộc truyền tin, quân cụ, cũng tổ chức y hệt như trại chúng tôi. Tôi vào phòng đầu pháo binh, đặt ba lô trên chiếc giường thứ hai từ ngoài đếm vào để chiếm chỗ. Căn phòng rộng khoảng 6 mét x 6 mét. Hai đầu có hai cửa ra vào. Mỗi bên kê bốn chiếc giường cá nhân bằng gỗ, hai tầng, trên một người, dưới một người. Tôi nằm ở tầng dưới, nghĩ mình lớn tuổi.

Tôi bị động viên năm ấy vừa tròn ba mươi tuổi, một anh lính già mới tò te. Trung đội sinh viên sĩ quan pháo binh có ba mươi sáu anh, chia nhau ra nằm mỗi phòng mười tám người. Thế mà cũng có vài anh khác đồng tuế, hoặc hơn tôi một hay hai tuổi. Như Bùi Thúc Duyên, Đặng Chiêu Tài, có nốt ruồi nơi má. Trẻ nhất có lẽ là anh Lê Văn Nghị, người Huế, đang học trung học đã bị động viên. Phần lớn là công tư chức, giáo viên tiểu học, giáo sư trung học. Học hết giai đoạn 1 (hai tháng), Nghị được chuyển sang bộ binh có lẽ vì yếu sinh ngữ. Thời ấy toàn học tiếng Pháp tại các quân trường. Sau này, trong cuộc đời quân ngũ, Nghị đã thăng đến cấp trung tá, thuộc Phòng 2, Bộ Tổng Tham Mưu. Mập nhất trung đội là anh Phạm Văn Mân, người Nam, đang học năm thứ nhất Luật khoa Sài Gòn.

Anh Nghị chọn ở trong nhóm (trinôme) của anh Mân và một anh nữa để được học kèm, có anh Mân giúp đỡ. Học nhóm là một phương thức học tập, do Trung úy Ladonne, trung đội trưởng của chúng tôi đặt ra, gồm có các anh Nguyễn Văn Vinh, tư chức, người Huế, và Ngô Văn Điện, giáo viên người Nam. Họ cho là tôi giỏi hơn nên bầu tôi làm trưởng nhóm, tôi có từ chối cũng không được. Học nhóm có lợi là gây óc cầu tiến. Vinh nằm tầng trên giường tôi, Điện nằm giường bên cạnh. Điện hiền khô, tóc hơi quăn, mắt tròn xoe như mắt mèo, lúc nào cũng vui vẻ, cười cười. Vinh hay pha trò, hơi tếu. Tầng trên giường của Điện là Chương Văn Nam, mặt đen, đầu húi ngắn như một võ sĩ quyền Anh. Nam cũng là giáo viên.

Tại các giường khác trong phòng, nếu tôi không lầm, có các anh Chung Văn Xôm, mặt nghếch nghếch, biết đàn vọng cổ, người Nam, tư chức, Trần Hùng Riệu, người Bắc, kiểm soát viên quan thuế, hóm hỉnh, Lê Tất Hào, nhỏ người, với cặp kính trắng, thích đấu lý, Nguyễn Tiến Ích, nghiêm trang, cận thị, ít nói… Hai anh Hào và Ích lúc ấy đều là sinh viên. Sau này giải ngũ, Hào làm luật sư, và qua Mỹ lúc nào không biết, đã đỗ tiến sĩ luật khoa Hoa Kỳ, hành nghề ở quận Cam, miền Nam Cali. Ích sau đó, được chuyển sang Hải Quân, vì anh đậu cử nhân toán. Có một dạo khi tôi làm ở ngành Tổng Quản Trị Bộ Tổng Tham Mưu, tôi có đề cử anh lên làm giáo sư Toán ở trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, cùng với anh Nguyễn Phụng, một sĩ quan Hải Quân khác. Anh Ích ngày ấy, tôi phục anh rất thông minh. Vừa qua, đọc báo, tôi được biết hiện anh cũng đang ở Hoa Kỳ. Các anh Mân, Riêu, Ích, Hào là những sinh viên sĩ quan giỏi của khóa tôi, ngành pháo binh.

Còn một anh nữa cũng xuất sắc, anh Bùi Hữu Khiêm, người Nam, sinh viên đại học. Khiêm, người nhỏ nhắn, khiêm nhường, mũi rất thẳng, điềm đạm, ít nói và học rất có phương pháp. Các môn pháo binh khá khó, cần phải có khiếu toán học. Khiêm không cày, không gạo như một số các anh khác, anh chỉ cần gạch xanh, gạch đỏ những đoạn nào cần thiết, và làm dàn bài ngắn gọn. Nhưng kết quả thi viết môn tác xạ đại cương, thi bắn thực hành, anh điểm rất cao. Nhờ anh có trí nhớ thị giác tốt. Sau này chuyển sang học Luật, anh cũng học có vẻ tài tử nhưng đậu cử nhân lúc nào không hay. Đại úy Vìgnon, trưởng ban Pháo Binh, người Pháp, một sĩ quan pháo binh rất thông minh và tài ba sau cặp kính trắng, lúc gần mãn khóa đứng trò chuyện với chúng tôi, thường quơ quơ cây gậy chỉ huy của ông ta và chỉ vào mỗi người chúng tôi, những sinh viên xem như sắp có điểm ra trường cao nhất. Bắt đầu là anh Mân, ông nói: “Anh có thể thủ khoa”. Rồi chỉ anh khác nói tiếp: “Anh cũng có thể là thủ khoa”. Rồi anh khác nữa: “Anh cũng có thể thủ khoa”.

Chỉ liên tiếp vào bốn, năm người. Ý ông ta muốn nói: “Ăn thua là ở Code d’amour mà tôi cho điểm các anh”. Đó là một số điểm do quyền chuyên quyết của các sĩ quan huấn luyện viên trưởng ngành ở các quân trường. Số điểm từ 0 đến 20 tối đa. Chúng tôi dịch đùa với nhau: “Điểm ái tình”. Tưỏng đại úy Vignon nói đùa, hóa ra là sự thật. Ngày mãn khóa, anh Phạm Văn Mân đậu thủ khoa, không chỉ của ngành pháo binh 36 người, mà còn là thủ khoa của toàn thể khóa 3, gồm khoảng bảy trăm tân khoa. Anh Mân đậu thủ khoa, kể cũng rất xứng đáng. Người anh thể lực khỏe, tính nết điềm đạm, học giỏi, bắn hay, địa hình, truyền tin, quân xa, môn nào anh cũng đều giỏi. Can đảm, tháo vát, rất tuân kỷ luật quân đội, giúp đỡ anh em đồng khóa.

Anh Mân đậu thủ khoa là niềm hãnh diện cho ngành pháo binh chúng tôi, như đại úy Vignon thường đề cao binh chủng: “đó là một binh chủng thông thái”. Trong cuộc đời quân ngũ, anh Mân cũng đã nhiều lần chứng tỏ tài của anh qua các khóa quân sự mà anh đều đậu thủ khoa, và những chức vụ quan trọng anh nắm giữ. Từ chức tham mưu trưởng Tổng Cục Tiếp Vận mà trong khi đang du học khóa Chỉ Huy Tham mưu Cao Cấp (Leavenworth) tại Hoa Kỳ anh được gọi về nước gấp để nhận lãnh, rồi tỉnh trưởng An Giang trong mấy năm, cuối cùng Mân được điều về làm phụ tá Tổng Ủy Công Vụ bên dân sự, ngang hàng thứ trưởng. Nhưng tiếc thay, nay đã là người thiên cổ. Được di tản qua Mỹ sau ngày mất nước, thời gian ở Mỹ anh đã chết trong một vụ tai nạn xe hơi. Người thứ nhì trong binh chủng pháo binh khi mãn khóa là anh Trần Hùng Riệu.

Sau này anh giải ngũ, trở về lại với ngành quan thuế. Không biết bây giờ anh ở đâu? Người thứ ba là anh Nguyễn Tiến Ích trên đây. Người thứ năm là anh Bùi Hữu Khiêm, người thứ sáu là anh Lê Tất Hào. Tôi được xếp hạng tư trong binh chủng. Đó là một sự may mắn, do sự cố gắng của bản thân. Tôi thích toán lúc còn đi học, nên khi được chọn vào ngành pháo, tôi dễ thích ứng trong việc tính toán với chiếc quạt độ giạt thời Pháp trên xa bàn cũng như các buổi thực tập tác xạ. Chứ thể lực tôi yếu, lớn tuổi, thuận tay trái, nên tôi gặp rất nhiều trở ngại khi leo trèo, chạy nhảy trên đoạn đường chiến sĩ, khi tập ném lựu đạn, khi bắn bia ở xạ trường. Với kết quả mãn khóa, tôi cũng có phần nào tự hào, xem như đại diện cho bảy sinh viên sĩ quan miền Trung, mang chuông đi đánh nước người, tôi không phải hổ thẹn vì màu cờ sắc áo.

Vì trong sáu anh xếp hạng cao nhất ngành pháo thủ, chỉ mình tôi là người miền Trung. Hầu hết ba mươi sáu sinh viên sĩ quan thuộc trung đội pháo binh đều ra trường với cấp bậc thiếu úy. Chỉ có vài người đậu chuẩn úy – Một người phải mang cấp Trung Sĩ, anh Nguyễn Mộng Hùng. Tính anh hơi bướng, hay cãi lại với đại úy Vignon sao đó, mà ông này nóng tính. Nhưng sau này, khi giải ngũ ra đời, anh lại rất thành công, vì anh này có khoa ăn nói, lợi thế trong việc xã giao. Trung đội chúng tôi chỉ có một anh tử trận. Anh Phạm Vĩnh Hưng, người Bắc, rất hiền lành, ngoan nết. Anh vĩnh viễn ra đi khi chưa có hiệp định Genève chia đôi đất nuớc, trong một cuộc hành quân tại miền Bắc mà anh là sĩ quan tiền sát pháo binh, yểm trợ cho một đơn vị bộ binh.

Các anh khác hoặc đã giải ngũ trở về đời sống dân sự, hoặc chuyển sang quân chủng, binh chủng hay binh sở khác… như Quân Nhu, Quân Pháp, Hải Quân, Không Quân hoặc Bộ Tổng Tham Mưu, Bộ Quốc Phòng. Những anh còn nặng nợ Pháo Binh hoặc yêu khẩu thần công Howitzer 105, 155 bắn xa, bắn mạnh, “artilleur fait mouche à chaque coup”, bách phát bách trúng, nghĩa đen và nghĩa bóng, đến ngày gần sập tiệm đều đã nở hoa mai bạc trên cổ áo. Có một số anh đã đi thoát được vào ngày ba mươi tháng 4, nay đang ở Hoa Kỳ, thành công trong cuộc sống. Những anh chậm chân, không có phương tiện, hoặc vì kỷ luật quân đội “người lính chưa hàng mà thành phố đã tiêu tan”(1), đều phải bị trả giá đắt cho mười ba năm lao lý trong ngục tù cộng sản. Anh Bùi Hữu Khiêm và tôi đều cùng chung một số phận. Các trại Long Giao, Suối Máu, Yên Báy, Nam Hà, Xuân Lộc, là nơi mà chúng tôi đã nếm mùi gian khổ, lao động cực nhọc, trong đói ăn, thiếu mặc, xa tất cả những tình thương, không hy vọng có ngày về.

Thời gian trong các trại cải tạo từ trong Nam ra đến ngoài Bắc, rồi lại trở về miền Nam, tôi đã gặp nhiều bạn đồng khóa, tuy không cùng binh chủng, nhưng đều chung một kỷ niệm. Đó là ngày trình diện nhập ngũ, bỡ ngỡ khi đến quân trường, và nỗi vui mừng sung sướng của ngày mãn khóa. Sau gần bảy tháng trên các thao trường, với bao nhiêu mồ hôi, nhưng rèn luyện cho mình được nhiều thứ, từ thể xác đến tâm hồn. Bắp thịt rắn rỏi, màu da rám nắng, tinh thần cương nghị. Nhìn chiếc ảnh tôi chụp ngày mãn khóa, trong bộ quân phục treillis màu xanh cỏ thẩm, chiếc mũ sắt đội trên đầu không còn thấy nặng, khẩu súng Garant M1 đeo sau vai từ nay là “người yêu của lính”, tôi không nhận ra là tôi nữa, trước đây mấy tháng, một viên chức ở tỉnh Thừa Thiên. Nay tôi là một thiếu úy tân khoa, vàng chói trên cầu vai cấp bậc thiếu úy mới mua.

Tôi là một sĩ quan của quân đội Việt Nam Cộng Hòa, đường binh nghiệp là con đường từ nay tôi phải theo, tuy tôi không chọn, nhưng cảm thấy thích thú, vì một cái gì đã đổi mới trong tôi. Vợ con tôi ở Huế đang mong đợi ngày tôi về chậm đến, vì tôi còn phải thực tập hai tháng pháo binh tại Trung Tâm Huấn Luyện Pháo Binh Phú Lợi, thuộc tỉnh Thủ Dầu Một. Các sĩ quan bộ binh sẽ về trước tôi để ra đơn vị hoặc nhận công tác tham mưu. Tôi còn được huấn luyện thêm hai tháng nữa về chuyên môn. Đêm nay, toàn thể sĩ quan tân khoa khóa 3 chúng tôi được các nhà Mạnh Thường Quân ở Sài Gòn mời dự tiệc, chia làm nhiều địa điểm.

Trong bộ lễ phục kaki vàng bốn túi mới may ngày sắp mãn khóa, chiếc mũ cát-két lưỡi trai cầm tay, chúng tôi bước vào những nhà hàng sang trọng của Sài Gòn đang chờ chúng tôi đến dự tiệc. Đêm nay, trong bầu không khí mát dịu của Sài Gòn hoa lệ, gần bảy trăm sĩ quan tân khoa được họp mặt nhau ở các nhà hàng, hoặc các tư gia sang trọng, để rồi ngày mai họ sẽ lên đường ra Bắc, hoặc về miền Trung, lên Tây Nguyên, hoặc xuống miền Tây. Tình đồng khóa của chúng tôi bắt đầu từ đấy.
(1) trích một bài hát do anh em hát trong tù

5- Sau ngày mãn khóa, được nghỉ phép hai tuần lễ để trở về thăm gia đình, ai nấy đều lên đường đi đơn vị bộ binh hay binh chủng, theo các vùng chiến thuật đã chọn sau khi có kết quả kỳ thi mãn khóa, tùy theo thứ tự cao thấp được xếp hạng. Hồi ấy, cuối năm 1953 – đất nước chưa bị chia cắt. Bốn vùng chiến thuật, hay đúng ra theo danh từ quân sự lúc bấy giờ là bốn quân khu. Miền Bắc, Quân khu 3 là nơi cuộc chiến tranh quốc cộng đang diễn ra một cách ác liệt nhất. Quân đội Pháp đã tạo ra trận Điện Biên Phủ để thu hút quân cộng sản về đấy hòng tiêu diệt, rảnh tay cho họ bình định vùng lưu vực sông Hồng. Còn Việt cộng cũng tương kế tựu kế, dồn tất cả lực lượng để vây hãm Điện Biên Phủ, cầm chân quân đội Pháp, khiến Pháp không còn nhiều lực lượng để ứng cứu các trận đánh ở đồng bằng.

Quân lực Việt Nam Cộng Hòa lúc ấy mới thành lập, hãy còn non yếu với những tiểu đoàn khinh binh, lấy từ các lực lượng Bảo Vệ Quân ở Trung, Bảo Chính Đoàn miền Bắc, một số đơn vị giáo phái. Các sĩ quan cán bộ đang được đào tạo gấp rút tại trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt và qua các khóa 1, khóa 2 và khóa 3 Thủ Đức như chúng tôi. Do đó, khi mãn khóa, ít ai muốn chọn ra Quân khu 3, trừ những anh quê quán vùng Hà Nội, hoặc xếp hạng thấp, không có quyền chọn chỗ. Quân khu 2 thuộc miền Trung, Quân khu 4 thuộc vùng Tây Nguyên Đà Lạt, Pleiku, Ban Mê Thuột, tương đối ít có những trận chiến lớn, tuy cũng lắm hiểm nguy. Chỉ có miền Nam là dễ chịu nhất, lực lượng quân Pháp ở đấy mạnh, nơi có thủ đô Sài Gòn cần phải bảo vệ, và Việt cộng lúc ấy chưa dám xâm nhập nhiều. Quân khu 1 rất được nhiều tân sĩ quan Khóa 3 Thủ Đức chọn để phục vụ, nhất là các anh quê quán ở miền Nam.

Vì xếp hạng thứ tư trong binh chủng và cũng đậu khá cao trong số năm mươi người đầu toàn khóa, đáng lẽ ra tôi được phục vụ tại một đơn vị pháo binh thuộc Quân khu 1 ở miền Nam. Tôi đã chọn Quân khu 1 rồi. Nhưng một bạn đồng khóa pháo binh, anh Huỳnh Hữu Lân, người Nam, phải chọn ra miền Trung, nơi anh không có gia đình. Lân đề nghị tôi đổi phương vị cho anh, để Lân vào Nam, tôi ra Huế. Sau một hồi suy nghĩ, cân nhắc tình cảm gia đình, bạn hữu, tôi thuận hoán đổi phương vị với Lân, anh vào Quân Khu 1, tôi về Quân Khu 2, tại Huế. Dù sao ở Huế, tôi còn cò vợ con tôi, đang sống nương náu ở gia đình nhà vợ. Dù tôi có theo đơn vị, cũng không đến nỗi quá xa nhà. Tâm tư một người công chức vẫn còn tiềm ẩn trong tôi.

Sau hai tuần nghỉ phép mãn khóa, các sĩ quan khóa 3 chúng tôi đều đi trình diện đơn vị, trên khắp các nẻo đường đất nước. Sĩ quan bộ binh được phân phối cho các đơn vị bộ binh, còn những người thuộc các binh chủng chuyên môn như chúng tôi, phải đi theo các binh chủng đã thụ huấn ở quân trường.
Trong quá trình binh nghiệp, các sĩ quan khóa 3 được thuyên chuyển đến nhiều nơi, bổ nhiệm vào các chức vụ khác nhau, người được giữ lại ở các bộ tham mưu quân khu, quân đoàn, sư đoàn, các bộ chỉ huy quân trường, binh chủng, người phải đi đơn vị chiến đấu, hành quân quanh năm suốt tháng. Mỗi người số phận như đã an bài. Với thời gian, cấp bậc càng cao, họ được giữ những chức vụ quan trọng hơn trong quân đội. Có người được thuyên chuyển vào Bộ Tổng Tham Mưu, Bộ Quốc Phòng hoặc các Nha Sở Trung ương. Có người được chuyển ngành, thay đổi binh chủng, quân chủng, chuyển vùng chiến thuật.

Có anh vươn cao hơn, được giữ một nhiệm vụ quan trọng ở Phủ Đầu Rồng. Các anh Huỳnh Minh Quang, Phạm Duy Thân, Ngô Như Báu thích nghề lính tàu bay, nên xin chuyển sang Không Quân, tuy để giữ những nhiệm vụ dưới đất. Nhiều anh học thêm, đậu được những bằng cấp dân sự, để có một tương lai sáng lạng hơn. Anh Phạm Đổ Thành, giám đốc nha Hành Chánh thuộc Tổng Nha Hành Ngân kế Bộ Quốc Phòng giật được mảnh bằng cao học luật khoa, sau đó ứng cử nghị sĩ quốc hội. Anh Nguyễn Trọng Liệu, thuộc Quân Cụ, đeo đuổi ngành luật học, lấy được cao học để chuyển sang Quân Pháp. Nay anh đã là tiến sĩ luật khoa Hoa Kỳ. Sau bao năm, tôi gặp lại anh ở quận Cam, anh không già đi tí nào, vẫn cái đầu tròn thưa tóc, đôi kính cận thị nặng, tính tình vui vẻ, xuề xòa. Nói chung, các sĩ quan khóa 3 Thủ Đức phần nhiều lớn tuổi, nhiều người là công chức, dạy học trước khi vào quân đội, nên mang theo tác phong công bộc, nhà giáo vào cuộc đời quân ngũ của mỗi người. Có người được biệt phái sang các ngành Dân sự, Giáo dục, Xây Dựng Nông thôn, Bưu Điện Viễn Thông…

Một số anh được tổng thống bổ nhiệm để giữ các chức vụ tỉnh trưởng: Phạm Đình Chi, Phú Bổn; Huỳnh Ngọc Diệp, Phong Dinh (Cần Thơ), trước đó anh là tỉnh trưởng Sa Đéc, Nguyễn Ngọc Diệp, Gò Công; Phạm Văn Mân, Long Xuyên. Sau đó Mân được bổ nhiệm về Phủ Tổng Ủy Công Vụ. Thật ra, các sĩ quan trừ bị khóa 3 đã được đào tạo một cách có hệ thống khi còn ở dân sự, họ có nhiều kinh nghiệm hành chánh, dạy học, họ lớn tuổi, đứng đắn, đàng hoàng, nên rất đắc lực nếu làm phụ tá cho các vị tư lệnh, tổng cục trưởng, tổng giám đốc. Và khi được giao cho những chức vụ chỉ huy, họ có nhiều sáng kiến, tinh thần phục vụ cao. Anh Trần Văn Thăng hiền lành, tốt bụng, đã từng làm Cục trưởng An Ninh Quân Đội, rất có uy tín một thời. Anh Nguyễn Kỳ Nguyện đã làm chánh văn phòng Đại tướng Tổng Tham Mưu Trưởng những năm cuối cùng của chế độ.

Khóa 3 Thủ Đức có thể nói là một khối thuần nhất trong quân đội, cần cù, kỷ luật và năng xuất cao. Một số anh đã giải ngũ sớm, cũng trở thành những luật sư giỏi: Trần Văn Thục, Lê Quý Đôn, Lê Tất Hào. Về cấp bậc, sĩ quan trừ bị khóả không được thăng cấp nhanh chóng như các khóa 1, khóa 2 đàn anh, mà một số đông đã bước lên hàng tướng lãnh, hoặc như khóa 4 đi sau, có những ngôi sao mọc sớm. Khóa 3 trừ bị thăng cấp chậm nhưng chắc, đến ngày quốc hận 30-4 phần đông đã được thăng cấp đại tá. Cũng lấp lánh vài ngôi sao để góp mặt với đời. Đó là hai anh Nguyễn Khoa Nam và Huỳnh Văn Lạc. Anh Nguyễn Khoa Nam nguyên là công chức trước khi nhập ngũ, anh làm việc ở Ty Ngân Khố Huế, trong những năm tôi tùng sự tại tòa Khâm Sứ Pháp. Tôi không quen biết anh nhiều lúc ấy. Khi vào quân đội, anh chọn binh chủng Nhảy Dù.

Một công chức trẻ như anh hồi đó, với cái bụng hơi phệ; đi lại không được nhanh nhẹn lắm, theo ký ức của tôi có về anh. Do đó, tôi rất ngạc nhiên và kính phục anh khi tôi đổi vào Sài Gòn, được biết anh thuộc binh chủng Nhảy dù, và sau đó làm đến Lữ Đoàn trưởng thuộc Sư đoàn Dù. Ngày anh được Tổng thống bổ nhiệm làm Tư Lệnh Sư đoàn 7 ở Mỹ Tho, anh có ghé thăm tôi tại Phòng Tổng Quản Trị và để xin tôi một số sĩ quan cấp tá để làm cán bộ nòng cốt tại Sư Đoàn này. Lúc ấy anh còn mang cấp bậc Đại tá. Vì tình đồng khóa, và là quê miền Trung; anh là người Huế, thuộc một trong bốn gia đình vọng tộc ở cố đô, Nguyễn Khoa, Hồ Đắc, Thân Trọng, Trần Thanh và cũng nguyên là công chức, tôi đã tận tình giúp đỡ anh. Tôi đưa anh vào xem phiếu tiểu sử của một số sĩ quan cấp tá mà tôi đánh giá tốt theo con mắt của một người đã lâu năm trong ngành quản trị nhân viên.

Anh Nam đến với tôi cũng do lòng tín nhiệm lẫn nhau và tin tưởng ở tôi, một người bạn đồng khóa. Liên tưởng đến anh Phạm Đình Chi, cùng khóa 3, hiện ở Sư Đoàn 7, tôi nhắc tên anh Chi với anh Nam. Chi lúc ấy không còn là tỉnh trưởng Phú Bổn nữa. Nam không nói gì, và xem tiếp các phiếu tiểu sử. Nhưng sau này Nam vẫn giữ Chi ở chức vụ tham mưu trưởng Sư Đoàn 7. Anh Nguyễn Khắc Thiệu, cũng khóa 3, làm chỉ huy trưởng Pháo Binh Sư Đoàn 7. Chuyện kể về tướng Nguyễn Khoa Nam rất nhiều, tuy không có tính huyền thoại như đối với Trung tướng Ngô Quang Trưởng, tư lệnh Quân Đoàn IV/Quân Khu 4 trước anh, nhưng vẫn xoay quanh cung cách lãnh đạo Sư Đoàn của anh Nam, là lo cho lính, đi sát với lính… và nếp sống độc thân lâu đời của anh không lay chuyển. Nhưng huyền thoại nhất là trong những năm tôi ở tù cộng sản, tôi vẫn được nghe nhiều tin tức về anh sau ngày cộng sản xâm chiếm miền Nam và nội các Dưong Văn Minh đầu hàng vô điều kiện.

Một vài bạn trẻ đồng tù, nguyên thuộc vùng 4 vẫn tin tưởng rằng tướng Nguyễn Khoa Nam chưa chết. Tin đồn anh tự sát theo họ là không đúng. Đó chỉ là tử thi của người quân nhân cận vệ của tướng Nam mà thôi. Còn tướng Nam thật sự đã thoát ra khỏi vòng thành Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 4, giả dạng người hành khất, sống lang thang, và đang tìm cách đi Mỹ. Huyền thoại trên được nuôi dưỡng những năm chúng tôi bị cộng sản đưa vào Nam, nhốt tại Xuân Lộc. Ngày sang Mỹ, được đọc một số báo cũ năm 1983 của bán Nguyệt san Đời, có bài viết của bà Phạm Thị Kim Hoàng, phu nhân cố tướng Lê Văn Hưng, người cùng tuẫn tiết với tướng Nam tại Cần Thơ năm 1975, mới biết huyền thoại trên đây chỉ là một điều bịa đặt. Một tướng lãnh khác thuộc khóa 3, anh Huỳnh Văn Lạc, nguyên tu xuất bị động viên. Anh Lạc người hiền lành, nụ cười dễ nở trên môi, càng hiền lành hơn sau khi đôi kính cận dày. Nhưng cũng rất kỹ lưỡng, tỉ mỉ trong công việc.

Ngày tôi phải thuyên chuyển về Quân Đoàn 4, đầu năm 1972, anh Lạc đang làm tham mưu trưởng Quân Đoàn. Gặp anh tôi cũng mừng, nghĩ rằng mình đang sa cơ thất thế, gặp bạn đồng khóa, có thể giúp đỡ cho tôi phần nào trong công vụ lúc ban đầu. Sau khi tôi được đổi về Sài Gòn trở lại, tôi được tin anh đi nắm một Sư Đoàn ở miền Tây. Còn một anh nữa, được báo Đai Dân Tộc “lăng xê” đưa tin lên mặt báo vào cuối năm 1973 (cùng với 4 anh khác) là được phong tướng, nhưng sau đó chìm xuồng luôn. Đó là anh Hoàng Đức Ninh, lúc ấy làm Tư Lệnh Biệt Khu 44 ở miền Tây.

Tình đồng khóa giữa các anh em khóa 3 Thủ Đức chúng tôi là như thế, bàn bạc trong suốt cuộc đời quân ngũ. Không ai lợi dụng ai trong chức vụ, nhưng âm thầm nâng đỡ nhau, trong sự tin cậy lẫn nhau. Để thể hiện tình thân tương ái này, vào khoảng thập niên 1960, một hội Ái Hữu Khóa 3 sĩ quan Trừ Bị Thủ Đức đã được thành lập, do anh Trần Văn Thăng làm chủ tịch. Thăng lúc ấy đang là Cục trưởng An Ninh Quân Đội, một chúc vụ mà những người khác khi nghe tên, đều có vẻ ớn, sợ nữa là đằng khác. An Ninh Quân Đội với các cấp chỉ huy tiền nhiệm, là ngành mà quân nhân đều kính sợ. Nhưng với cục trưởng Trần Văn Thăng thì khác. Ngành này có vẻ cởi mở hơn. Nhất là đối với chúng tôi khóa 3, có một người bạn đồng khóa, giữ một chức vụ then chốt như vậy, cảm thấy dễ chịu hẵn. Hơn nữa dáng dấp của Thăng trông như một vị sư, hiền lành, hòa nhã, kín đáo, thâm trầm, chứ không có vẻ gì là hùng hổ, ta đây, như một người nào khác ở vào địa vị của anh.

Thời ấy, thường mỗi năm, đến ngày 1 tháng tư – ngày nhập ngũ khóa 3 Thủ Đức – chúng tôi tổ chức gặp nhau, ăn uống, trò chuyện, và bàn bạc những công việc hội ái hữu. Mượn hội trường Cục Công Binh ở Sài Gòn làm nơi hội họp. Ngày làm trưởng phòng Tổng Quản Trị Bộ Tham Mưu, tôi đã nhiều lần tham dự buổi họp mặt này. Sau khi anh Thăng thôi giữ chức vụ hội trưởng, anh Phạm Đổ Thành, thuộc ngành Hành Chánh Tài Chánh Bộ Quốc Phòng được anh em trong khóa bầu lên giữ chức vụ này. Anh Thành được đắc cử vào Thượng Viện, khóa chúng tôi lại có một ái hữu tại tòa nhà lập pháp lúc bấy giờ. Nếu khóa 1 Thủ Đức có nhiều tướng lãnh nhất trong quân đội, khóa 3 chúng tôi lại tỏa ra khắp nơi, nắm giữ nhiều chức vụ quan trọng, góp mặt ở nhiều lãnh vực, quân sự, chính trị, văn hóa, nghệ thuật, thương mại, kinh doanh.

Anh Nguyễn Kim Tuấn với bút hiệu Duy Lam là một nhà văn, một nhà thơ lớn, có tầm vóc quốc tế. Anh Tạ Tỵ, một nhiếp ảnh gia nghệ thuật tài ba. Anh Lưu Tấn Phát chủ tịch công ty bảo hiểm Met-Life ở quận Cam, miền Nam Cali. Anh Lý Quốc Sinh, một nhà văn, nhà giáo, anh Tô Văn Đào, một luật sư. Hai anh sau này đã bỏ mình trong ngục tù cộng sản. Tình đồng khóa vẫn còn tiếp tục khi chúng tôi phải trải qua những ngày lao lý. Lấy ngày 1 tháng 4 làm kỷ niệm, trong thời gian ở trại giam Xuân Lộc, khi chúng tôi được đưa về Nam năm 1983, mỗi năm đến ngày ấy, một số bạn đồng khóa 3 và đồng tù đã họp nhau để đánh dấu ngày nhập ngũ hơn ba mươi năm về trước. Buổi họp mặt rất đơn giản: một chiếc chiếu hoa trải ở góc sân sau một dãy nhà tù trong trại, dùng làm mặt bàn, dưới những tàn mít cao cho bóng mát.

Trên mặt chiếu, nào kẹo bánh, cà phê, nước trà, do các anh em đồng khóa tự nguyện góp, trích trong số quà nhà, gia đình mang đến cho hàng tháng, mỗi lần thăm viếng thân nhân đang “cải tạo”. Bạn đồng khóa ở trại giam Xuân Lộc, ít thôi: các anh Nguyện (văn phòng Đại Tướng, Tổng Tham mưu Trưởng, Trần Văn Hoàng (Phòng Tổng Quản Trị Bộ Tổng Tham mưu), Nguyễn Khắc Thiệu, Nguyễn Văn Trân (Pháo Binh), Bùi Hữu Khiêm, Trần Tín, Lê Quang Thi, Võ Quốc Sử, Huỳnh Minh Quang, vài anh nữa và tôi. Mỗi người một chiếc đòn ghế nhỏ, đi đâu cũng mang theo để ngồi, quây quần xung quanh chiếc chiếu, nhâm nhi kẹo bánh, trò chuyện râm ran, ôn lại những kỷ niệm ngày xưa, thời quân trường, thời quân ngũ, cười đùa chọc nhau tùy lúc, để mong quên phần nào cảnh “nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại”, không biết đến ngày nào mới được tự do.

Tôi sang Hoa Kỳ gần hai năm, nhưng mới về cư ngụ tại Quận Cam miền Nam Cali được tám tháng nay. Nhân đến dự tiệc cưới con gái một người bạn, tình cờ tôi gặp anh Nguyện Trọng Liệu. Tay bắt mặt mừng, tôi biết được anh Liệu hiện thời là Chủ tịch hội ái hữu Nguyễn Khoa Nam, lấy tên của vị anh hùng dân tộc, cố Trung tướng Nguyễn Khoa Nam, người bạn đồng khóa của chúng tôi, lòng tôi vô cùng xúc động và tự hào. Hội đã quy tụ cho đến nay hơn một trăm ái hữu, hiện có mặt tại Hoa Kỳ, trên đất nước tạm dung, đa số đều sống ở miền Nam và miền Bắc Cali. Một số anh sống rải rác ở các tiểu bang khác. Phần lớn các anh đã may mắn ra đi vào những ngày miền Nam sụp đổ. Sang đây, các anh đã thành công về nhiều mặt, bản thân, gia đình vợ con, đạt được danh vọng, tiền tài và hạnh phúc. Con cái các anh hầu hết đã thành tài, và có chỗ đứng vững vàng trong xã hội Mỹ, trong cộng đồng người Việt ở hải ngoại. Những người mới qua sau này, theo diện HO, ODP, tuy đi sau các anh mười bảy, mười tám năm, nhưng khoảng cách xa vời, như gần một thế kỷ. Một sự thua kém rõ rệt về nhiều mặt: thành công trong cuộc sống, ngôn ngữ, sự học hành của con cái, tương lai còn mờ mịt, tình cảm nhạt phai, hạnh phúc gia đình có người đã đổ vỡ.

Nhớ về khóa 3 là nhớ đến quân trường Thủ Đức, nơi mà bốn mươi mốt năm về trước, phần đông đã trên dưới ba mươi, gồm nhà giáo, công tư chức, sinh viên học sinh, đã có cuộc sống ổn định ngoài đời, thuộc khắp nẻo đường đất nước, nhưng đáp lời sông núi, đã đi trình diện nhập ngũ để trở thành sĩ quan trừ bị, góp phần vào việc bảo vệ tổ quốc quê hương. Đa số đã trở thành sĩ quan, nhưng cũng có người kém may mắn, đã ra trường với cấp trung sĩ. Cũng có anh còn xấu số hơn nữa, biết mình thi điểm kém, nên quẫn trí, vào buồng tắm, kê cầm vào họng súng Garant M1, tự sát một buổi chiều hè nọ, anh em vừa thi vấn đáp về, bỗng nghe tiếng súng nổ vang lên, kết liễu một cuộc đời. Tên anh là Đậu.

Nhớ về khóa 3 là nhớ đến những buổi trưa hè nắng gắt của miền Nam, cùng nhau tập dượt môn tác chiến ở thao trường, mệt lã, mồ hôi nhễ nhại. Trong những phút nghỉ giải lao, được uống bát nước dừa xiêm tươi mát, từ các quả dừa xiêm nho nhỏ do những cô gái quê xinh xắn chào mời, thắm đượm tình quân dân. Hoặc những cuộc hành quân đêm trong chương trình thao diễn, phải ngủ qua đêm trong những chiếc lều vải cá nhân, nằm nghe mưa rơi qua kẻ lá, thấm xuống vải lều căng thẳng, xung quanh lều, mỗi người có đào những rãnh nhỏ ngăn nước không chảy vào lều ướt lạnh. Một tuần lễ vất vả, mệt nhọc, với những môn lý thuyết và thực tập san sát nhau không kẻ hở trong chương trình huấn luyện.

Mong cho đến trưa thứ bảy, thắng bộ quân phục “sortie” vào, quần áo kaki vàng dài tay, cà vạt đen, mũ cát-két, leo lên những chiếc xe GMC, ngồi đầy ở khung sau. Đoàn quân xa chở về Sài Gòn thả các sinh viên sĩ quan ở khoảng đường Hai Bà Trưng, mỗi người trong tay cầm tấm giấy phép, được tự do hai mươi bốn tiếng cuối tuần. Những anh người Nam, có gia đình ở Sài Gòn, thích thú được về hú hí với vợ con. Những anh miền Trung, miền Bắc tìm đến nhà bà con, nhà bạn, hoặc thuê phòng – chẳng mấy chốc họ đều biến mất, lẫn trong giòng người xuôi ngược, mỗi người một tâm sự riêng tư. Họ đi ăn, xem ci-nê, đêm ấy có người hẹn đào đi bát phố, tận hưởng hai mươi bốn giờ trước mắt tự do. Để rồi chiều chủ nhật, cũng vào giờ này, hẹn nhau tại bãi đậu xe đường Hai Bà Trưng hôm qua. Đoàn quân xa lại chở các sinh viên trở về quân trường, vui vẻ thoải mái, tinh thần sảng khoái, cũng có kẻ có những tâm sự buồn, để tiếp tục ra thao trường huấn luyện. Phải hai tuần lễ nữa mới được đi phép lần sau.

Nhớ về khóa 3 là nhớ những bài thi tập thể, cả mấy trăm sinh viên ngồi theo đội ngũ tại sân cờ trong một buổi sáng mát trời, im lặng làm bài lý thuyết, để Ban Giám Khảo đánh giá học tập của mỗi người, lấy điểm mãn khóa. Riêng ngành pháo binh chúng tôi, ngoài ra, còn có những buổi thực tập tác xạ vào “đảo dừa”. vùng tự do oanh kích, vì là vùng Viêt Cộng. Hoặc lặn lội với quan ba Vignon, trưởng ban huấn luyện pháo binh đến những khu rừng vắng, các cánh đồng hoang. Pháo đội thực tập đặt ở đâu, ông không cho biết, chỉ cho biết mục tiêu. Sinh viên phải ước lượng, tính toán trên bản đồ của mình. Bắn một quả thử, hoặc ngắn quá, hoặc dài quá, để điều chỉnh cự ly, hướng đúng, rồi bắn hiệu qua. Đại úy Vignon quả là một sĩ quan pháo binh xuất sắc của Pháp, một huấn luyện viên rất giỏi. Suốt mấy tháng học với ông, chúng tôi đã nắm vững kỹ thuật pháo binh và tự hào là một pháo thủ giỏi, không mặc cảm tự ti trước các sĩ quan Pháp khi ra đơn vị.

Còn Trung úy Ladonne đi theo sát trung đội như hình với bóng, để ý từng ly từng tí về tính tình, thái độ, mặt yếu, mặt mạnh của mỗi sinh viên, đánh giá rất đúng. Sau này khi làm ở ngành Tổng Quản Trị, tôi có dịp mở hồ sơ cá nhân của mình ra xem, biết anh nhận xét rất tinh tường. Trong quá trình huấn luyện, chúng tôi cũng có dịp về Sài Gòn tham dự lễ duyệt binh trong ngày quốc khánh. Hùng dũng khi đi ngang qua khán đài danh dự, rất đều bước trong nhịp quân hành. Được vậy cũng nhờ tài điều khiển của Ladonne, với các thế đứng nghiêm, bắt súng chào, súng lên vai đi đều bước, từ người cao đến người thấp, sắp xếp như mái ngói trên nhà. Anh đã nghiêm khắc phê phán những bước chân xiêu vẹo, đi lạc nhịp, cách bắt súng chào ẻo lả của một vài anh sinh viên trong trung đội. Ladonne đã đào tạo cho chúng tôi một tinh thần kỷ luật rất cao, một sự cố gắng liên tục. Đó là điều mà chúng tôi đòi hòi sau này ở các binh sĩ dưới quyền.

8-
Nhưng tất cả những thứ đó đều đã qua và đã hết, với ngày mất nước. Một số tướng lãnh, sĩ quan cấp tá bỏ ngũ chạy ra nước ngoài. Số còn lại, vì chậm chân, vì quân kỷ, vì danh dự của người lính, nên bị kẹt lại để đi tù cộng sản trên mười mấy năm. Nhớ về khóa 3, để nhớ đến một số anh em đồng khóa đã bỏ mình trong các trại tù cải tạo của cộng sản, từ miền Nam ra đến miền Bắc, theo sự kiểm kê chưa đầy đủ, đã có trên mười người. Cùng trại giam Nam Hà với tôi, có anh Võ Thành Phú, Công Binh, rất hiền lành và cần cù lao động. Gặp anh mới tháng trước đó ở sân trại trong dịp đi lãnh quà nhà gửi, biết anh mắc bệnh, sức khỏe quá suy yếu. Sau đó nghe tin anh chết ở một bệnh viện. Anh Trần Tấn Đĩnh, cựu Trung tá ngành chiến tranh chính trị, con trai của cố nhà văn Trọng Lang, tác giả “Tôi kéo xe”. Anh Đĩnh khá thân với tôi, thời “Khung trời đại học, con đường Duy Tân cây dài bóng mát”. Anh bị giam ở trại tù Tân Lập.

Chị Nam Trân thuộc chương trình VNP năm ngoái về Việt Nam có đi thăm trại tù này và tìm kiếm những nấm mộ còn gửi nắm xương tàn ở miền Bắc. Cảnh chụp chị quỳ xuống cỏ, tay bới những đám lau sậy xung quanh mộ bia, để lộ tên anh “Trần Tấn Đĩnh”, nhìn trong màn ảnh nhỏ, tôi cảm thấy nghẹn ngào. Vợ con anh hiện còn ở lại Việt Nam, không thuộc diện ra đi. Anh Phan Mạnh Tuân, thời anh làm ở Phòng 1/TTM, tôi nhiều lần gặp anh, người dong dỏng cao, nước da ngăm đen, tính tình hòa nhã. Tôi nghe anh bị trật chân rơi xuống sông Sài Gòn chết cái đêm cộng sản chở tù đưa ra miền Bắc nhốt bằng đường thủy, vào một đêm tối trời, khoảng cuối tháng sáu 1975. Một cái chết tức tửi, ngậm ngùi cho số phận.

Thời gian mấy chục năm qua, các bạn đồng khóa, kẻ còn, người mất, lưu lạc bốn phương trời. Giờ gặp nhau đây tại Hoa Kỳ, một số bạn đã lập nên Hội ái hữu Nguyễn Khoa Nam, để vinh danh cho một cố ái hữu, nay là một vị anh hùng dân tộc, là một việc làm rất quý trọng và hết sức hoan nghênh. Nhịp cầu tri âm được nối liền qua đặc san của hội, để anh em đồng khóa mọi nơi gửi gấm những niềm tâm sự, trao đổi cùng nhau những kinh nghiệm trước cuộc đời còn lại của mỗi người. Giờ đây chúng ta không còn trong quân ngũ với cấp bậc cao thấp khác nhau, không còn giữ những nhiệm vụ quan trọng nhiều hay ít trong chế độ miền Nam nữa. Sống trên đất tạm dung, kẻ qua trước, người đến sau, thành công hay thất bại, hạnh phúc hoặc đau khổ, mỗi người một hoàn cảnh, một tâm tư. Giờ đây, tất cả chúng ta, người trẻ nhất cũng đã trên đầu hai thứ tóc, người nào cũng dày kinh nghiệm sống, hiểu biết quá nhiều về Cộng sản. Chúng ta đã mất tất cả những thứ gì trong quá khứ, không bao giờ trở lại như xưa. Giờ đây, chúng ta chỉ sống bằng kỷ niệm của thời quân ngũ, với những hình ảnh cũ chụp ở quân trường, nếu ai còn giữ lại. Giờ đây chỉ còn chút tình người, lồng trong mối tình đồng khóa mà Hội Ái Hữu là nhịp cầu tri âm, để giữ mối liên lạc thân thương.